Vô thường có nghĩa là không thường, không bền chắc, từ trạng thái này biến đổi qua trạng thái khác và tan hoại theo định luật thành, trụ, hoại, không hay sinh, trụ, dị, diệt.
Vô thường (tiếng Pali: Anicca hay Anitya trong tiếng Phạn) là một trong những học thuyết nền tảng của đạo Phật đã luôn tồn tại sẵn, chỉ được nêu ra dựa trên thực tế mà Đức Phật đúc rút kinh nghiệm và nhận thấy được trong cuộc sống này. Dù cho có Phật ra đời hay không thì thế gian cũng là vô thường, vẫn luôn biến dịch không ngừng.
Học thuyết khẳng định rằng tất cả sự sống đều có điều kiện, không có ngoại lệ, chỉ là thoáng qua, bay hơi và không bền vững. Phật gọi những giai đoạn thay đổi này là: sanh, trụ, dị, diệt.
Vô thường là một đặc tính của Tánh không, mọi thứ tồn tại dựa trên sự phụ thuộc, tương tác lẫn nhau, phát sinh và biến đổi từ dạng này sang dạng khác, không có cái nào tồn tại độc lập, không có cái nào tồn tại, tất cả đều trống rỗng.
+ Thân vô thường: Sinh, lão, bệnh, tử, bệnh tật, tai nạn bất thường luôn xảy ra.
+ Tâm vô thường: Lòng tin dễ lung lay, lý tưởng cũng dễ thay đổi.
+ Thời gian vô thường: Đời người thật ngắn ngủi để rồi thoáng chốc hiểu ra một điều được sống thanh thản hưởng chọn niềm yêu thương là điều quý giá.
+ Tiền vô thường: Chúng ta ra đời với bàn tay trắng và ra đi cũng vậy, dù cuộc sống có giàu sang phú quý cỡ nào khi chết rồi cũng chẳng thể mang theo.
Vô thường có nghĩa là không có gì thường xuyên và trường tồn mãi mãi. Tấm thân con người là vô thường. Quy luật Sinh – Lão – Bệnh – Tử là quy luật muôn thuở của mỗi con người. Tai nạn, bệnh tật bất thường ập đến. Cuộc đời con người cũng vậy, nay còn mai mất. Không ai có thể đoán trước được điều gì.
Kiếp người ngắn ngủi, vạn vật vô thường biến ảo, như đám mây lơ lửng giữa bầu trời hợp tan, để trong lòng chúng ta biết bao lo âu, nuối tiếc và sợ hãi. Xâu chuỗi thời gian âm thầm lặng lẽ trôi qua cho đến khi tử thần gõ cửa ra đi, để lại cho kẻ khóc tiễn người đi nghìn thu vĩnh biệt.
“Tất cả những gì trong thế gian đã là biến đổi, hư hoại đều là vô thường”. Vậy vô thường có nghĩa là không thường, không bền chắc, từ trạng thái này biến đổi qua trạng thái khác và tan hoại theo định luật thành, trụ, hoại, không hay sinh, trụ, dị, diệt.
Ví dụ như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là thành (hay sanh). Khi nhô lên cao nhất gọi là trụ. Khi hạ dần xuống gọi là hoại (hay dị). Khi tan rã thì gọi là không (hay diệt). Như vậy, tất cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ như hạt cát đến lớn như trăng sao, đều phải tuân theo 4 giai đoạn đó cả, nên gọi là vô thường.
1. Thân vô thường
Nói đến thân vô thường, nó sanh diệt từng giây phút và rồi xâu chuỗi thời gian sẽ âm thầm đưa đẩy chúng ta dần dần vào cõi chết.
Theo như thực tế khoa học ngày nay đã chứng minh rằng, các tế bào trong cơ thể con người luôn luôn thay đổi, làm cho chúng ta mau lớn, chóng già rồi chết. Cái thân của con người như tuyết gá cành cây, sương đầu ngọn cỏ, mới thấy đó rồi lại mất đó. Tất cả không ai thoát khỏi cảnh sanh, già, bệnh, chết.
Từ khi còn nằm trong bụng mẹ đã khổ rồi, bốn bên bao bọc đen tối chẳng khác nào như chốn ngục tù đầy nhơ uế. Đến lúc chào đời cho đến khi trưởng thành, trải qua không không biết bao nhiêu bệnh hoạn, tai nạn, ưu sầu, khổ não… lúc nào cũng rình rập bên mình. Tuổi về chiều lại còn khổ hơn: nào là da nhăn, tóc bạc, má hóp, răng rụng, thân thể gầy yếu, đi đứng khó khăn, đau ốm triền miên, khổ không tả xiết, lần hồi bước vào cõi chết. Mà khi từ giã cõi đời tạm bợ, ta chỉ theo đường tội phước.
Nói đến cái chết, trong kinh Tứ Thập Nhị Chương kể rằng:
Thuở Phật còn tại thế, một hôm Ngài cho gọi chư Tỳ-kheo đến và hỏi:
– Mạng người sống được bao lâu?
Vị thứ nhất thưa rằng:
– Bạch Thế Tôn, mạng người sống được 100 năm.
Vị thứ hai nói sống được 70 năm, còn vị thứ ba nói rằng chỉ sống được vài ngày. Sau cùng, có một vị đứng lên thưa rằng:
– Bạch Thế Tôn! Mạng người sống trong vòng hơi thở.
Phật khen rằng:
– Ông đã hiểu và nói như vậy mới thật là người giác ngộ.
Thân ta vay mượn các duyên bên ngoài để sống còn. Khi duyên hết thì tan rã. Khi vô thường đến mới biết mình trong mơ, vạn vật đều vô thường. Duy chỉ còn lại nghiệp lành hay dữ theo mình mà thôi.
2. Tâm vô thường
Thân đã vô thường, nhưng tâm có vô thường không? Nói đến cái tâm, nó sanh diệt vô thường còn hơn cái thân rất nhiều. Nó sanh diệt rất nhanh từng niệm từng sát-na. Hễ đối cảnh là sinh tâm vui buồn, thương ghét, giận hờn.
Lúc thì hồi tưởng về quá khứ để nuối tiếc. Khi thì mơ mộng đến tương lai. Bồn chồn lo lắng trong hiện tại, không có lúc nào được yên. Nó thay đổi không ngừng, nhấp nhô như sóng biển, nên đức Phật gọi là tâm viên ý mã (ví như khỉ chuyền cành, ngựa chạy rong).
Phàm phu lầm chấp tâm mình là thật mà gây không biết bao nhiêu lỗi lầm, nào là độc đoán, cố chấp, tự hào, khoe khoang hay hăm dọa, nói rằng: “Tánh tôi hay nóng lắm, xin đừng đụng chạm tới tôi”. Cái tánh sân si, hung hăng xấu ác như vậy mà không có biết sửa đổi, còn đi nói ra, thật là mê muội.
Tâm vô thường hay bị xáo trộn, nó len lỏi vào cuộc sống của từng người, cho dù xuất gia hay tại gia.
Trong kinh Pháp Cú, đức Phật có dạy:
“Người trí canh giữ tâm
Như phòng hộ thành quách
Tự tâm mình cũng phải
Nên phòng hộ như thế
Dầu chỉ một giây phút
Cũng chớ nên bung lung
Tức thời liền sa đọa”.
Vậy phòng hộ tâm là sao? Là chúng ta phải nhiếp phục sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Kinh A-hàm, đức Phật đưa ra 11 phương pháp tu tập để cho tâm được an lạc giải thoát:
- Tự mình là thiện tri thức, thân cận gần gũi thiện hữu tri thức để học hỏi những điều hay lẽ phải.
- Phải giữ gìn giới cấm, thâu nhiếp oai nghi, phòng hộ các căn, dẫu cho thấy một lỗi nhỏ cũng canh cánh lo sợ.
- Điều thiện chưa sanh thì làm cho nó sanh. Điều thiện đã sanh làm cho nó tăng trưởng. Điều ác chưa sanh thì đừng cho nó sanh. Điều ác đã sanh rồi thì phải đoạn trừ.
- Không nên tụ tập bàn nói những điều nhảm nhí vô ích, phi pháp. Mỗi khi nói ra phải như pháp mà nói, lúc nào cũng ca ngợi tán thán hạnh thiểu dục tri túc, nói về giới, định, tuệ, giải thoát tri kiến.
- Quán thân bất tịnh.
- Quán tâm vô thường.
- Quán pháp vô ngã.
- Quán thọ thị khổ.
- Quán sổ tức.
- Tu tâm từ.
- Tu vô thường tưởng.
Tóm lại, vạn pháp đều do tâm tạo. Phàm trong khi tác ý muốn làm việc gì, cần phải lấy trí huệ, tư duy quán xét. Nếu như việc nói năng hay hành động đó đem lại lợi ích cho mình và cho người thì nỗ lực làm, còn nếu đem tới thiệt hại cả hai hoặc lợi mình hại người thì phải đoạn trừ. Muốn cho có trí huệ sáng suốt, điều quan trọng là tâm phải thanh tịnh, tự mình là thiện tri thức và phải gần gũi người lành, cố gắng giữ giới, phòng hộ các căn. Khi nói ra phải như pháp mà nói lời đạo đức, tích cực làm việc thiện, quán thân mình là nhơ bẩn, vật chất là giả tạm, tâm không thật, pháp chỉ là phương tiện, có nghĩa là thấy biết tất cả mà không bị ô nhiễm vướng mắc, trụ chấp đó là tâm chơn thường, chơn lạc, tự tại giải thoát. Đây là phương pháp nhiếp tâm để duy trì chánh niệm, phản tỉnh thanh lọc làm cho tâm được trong sạch thanh tịnh. Động, tịnh, khổ, vui, những môi trường, hoàn cảnh xung quanh chúng ta tốt hay xấu đều do tâm tạo ra mọi cảnh ngộ.
3. Hoàn cảnh vô thường
Như ta cũng từng thấy và chứng kiến, có không biết bao nhiêu cảnh vinh nhục, sang hèn, được mất, hơn thua cứ tiếp tục diễn ra trước mắt. Nào là nhà lầu, xe hơi, của cải vật chất đầy rương đi chăng nữa, nhưng chỉ cần một trận động đất, thiên tai hỏa hoạn, bão tố, lũ lụt hay trải qua một trận binh biến cũng trở thành những đống tro tàn, gạch vụn vùi sâu xuống lòng đất.
Vô thường là định luật chi phối tất cả sự vật từ thân, tâm cho đến mọi hoàn cảnh. Hiểu lý vô thường, chúng ta sẽ có một phương thuốc thần diệu để trừ bệnh tham ái, mê mờ. Chúng ta đã đau khổ về màu sắc tốt xấu, vì tiếng dở hay, vì mùi vị ngọt bùi, cay đắng, vì vật thích thân vừa ý. Nay chúng ta uống thuốc “giáo lý vô thường” để trừ bệnh tham ái và tiến tới sự an tĩnh của tâm hồn.
Biết được vô thường, con người dễ giữ được bình tĩnh, thản nhiên trước cảnh đổi thay bất ngờ và có thể lạnh lùng trước cảnh ân ái chia ly.
Biết vô thường, con người dám hy sinh tài sản, sinh mạng để làm việc nghĩa.
Biết vô thường, con người mới chán ngán với những thú vui tạm bợ, giả dối và sáng suốt đi tìm những cái vui chân thật, thường còn. Vì thật ra, cái vui chân thật thường còn, cái tánh chân thường vẫn có, nhưng nó nằm bên trong cái lớp giả tạm nên chúng ta không thấy được. Khi chúng ta đã cương quyết gọt bỏ cái giả dối ấy, thì tất nhiên cái giá trị chân thật, hạnh phúc chân chánh, cái Phật tánh sáng suốt chắc thật muôn đời sẽ hiện ra.
4. Vô minh là không biết vô thường, sinh diệt
Minh trong đạo Phật là tuệ giác, thấy biết như thật về vạn pháp. Đức Phật khi thành đạo Ngài chứng Tam minh (Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh). Các bậc Thánh A-la-hán chứng đạo thì vô minh diệt và minh sinh.
Hàng đệ tử Phật chúng ta mỗi phút giây vẫn đang thực tập minh sát, phát huy chánh niệm và tỉnh giác để thấy tất cả pháp đều vô thường, sinh diệt, vô ngã.
“Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la cùng ở trong núi Kỳ-xà-quật. Buổi chiều sau khi từ thiền tịnh dậy, Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cùng nhau thăm hỏi, rồi ngồi lui qua một bên, nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:
– Tôi có điều muốn hỏi, Nhân giả có rảnh để giải đáp cho chăng?
Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời:
– Tùy theo những gì Nhân giả hỏi, nếu tôi biết, tôi sẽ trả lời.
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:
– Gọi là vô minh, vậy thế nào là vô minh?
Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời:
– Là không biết. Không biết tức là vô minh. Không biết cái gì? Không biết như thật mắt là vô thường; đó gọi là không biết. Không biết như thật mắt là pháp sanh diệt, đó gọi là không biết. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Như vậy, Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la đối với sáu xúc nhập xứ này mà không như thật thấy, biết, không vô gián đẳng, ngu si, không sáng, tối tăm, đó gọi là vô minh.
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la lại hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:
– Gọi là minh, vậy thế nào là minh?
Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời:
– Là biết. Biết tức là minh. Biết những gì? Mắt là vô thường, nên biết như thật mắt là vô thường; mắt là pháp sanh diệt, nên biết như thật mắt là pháp sanh diệt. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Thưa Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, đối với sáu xúc nhập xứ này mà như thật biết, thấy, sáng tỏ, giác ngộ, có trí tuệ, có vô gián đẳng, đó gọi là minh.
Bấy giờ, hai vị Chánh sĩ đều tùy hỷ, mỗi người trở về chỗ của mình.
(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 251)
Thì ra, minh hay tuệ giác không ở đâu xa mà có ngay trong cuộc sống hiện tại của chúng ta. Ngay nơi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) của mình, hãy quán sát để thấy biết rõ chúng vô thường, là pháp sinh diệt. Cái khó là chúng ta không phải lúc nào cũng tỉnh giác để hiện quán (vô đẳng giác), thấy rõ đương tại các pháp đang sinh diệt trong từng sát-na.
Sáu căn vô thường sinh diệt lại tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) cũng vô thường sinh diệt. Do tiếp xúc làm duyên nối căn trần lại với nhau mà từ đó sinh yêu ghét. Vô minh hay có minh xuất hiện trong khoảnh khắc này và dẫn ta đi về vô tận thăng trầm khổ vui hay nhẹ nhàng an yên trong cuộc sống.
Không thường biết (vô minh) thì mọi thứ đều thật, mọi khổ vui trong cuộc đời đều hiện hữu rất thật. Từ đó mà rong ruổi tìm cầu, nắm giữ điều yêu thích và chối bỏ, xua đuổi những điều chán ghét. Vòng luẩn quẩn yêu ghét của cuộc sống sẽ chấm dứt khi tâm ta sáng tỏ, thấy căn trần đều hư giả thì nhẹ nhàng xả buông mọi thứ. Thường minh, tức luôn thấy biết rõ ràng tính duyên sinh giả hợp của pháp thì tự khắc an yên.
5. Đã hiểu vô thường sao còn phiền não?
Chúng ta đến với cuộc đời này có 2 bàn tay trắng, mà rời khỏi thế gian cũng trắng hai bàn tay, mang theo được gì? Cuộc sống là vô thường vậy sao bạn còn phiền não?
Đời này, chúng ta tranh đấu là vì điều gì? Tất bật lo toan, bon chen cuộc sống cầu mong tiền tài vật chất danh vọng? Chúng ta yêu đương cuồng nhiệt, hờn ghen, oán giận đến mức tự làm hại bản thân và người khác cuối cùng là vì điều gì?
Kiếp người thật ngắn ngủi, vô thường, mọi sự đều thay đổi từ vật chất đến tinh thần. Xâu chuỗi thời gian âm thầm lặng lẽ trôi qua cho đến khi tử thần gõ cửa ra đi để lại kẻ khóc tiến người đi nghìn thu vĩnh biệt. Thật vậy, cái thân con người chẳng khác nào tuyết gá cành cây, sương đầu ngọn cỏ, mới thấy đó rồi lại mất đó.
Hiểu được những điều trên, Thái tử Tất Đạt Đa nghiệm thấy thân này là tứ khổ, nên ngài xuất gia đắc đạo hiệu là Thích Ca Mâu Ni, đem giáo pháp cứu độ chúng sanh đưa họ vào cõi Niết Bàn bất sanh bất diệt.
Thưa quý Phật tử, cái thân của ta có gì là thật đâu? Tất cả không ai thoát khỏi cảnh sinh – lão – bệnh – tử, thế nhưng chúng ta vẫn không thoát ra khỏi những phiền não? Vậy vì sao lại vậy?
Có nhiều người nhận ra và chia sẻ rằng, dù họ đã biết và thấu hiểu được quy luật vô thường trong cuộc sống nhưng vẫn không sao thoát khỏi những phiền não, buồn phiền, lo lắng thường ngày… điều này khiến họ rất khổ tâm và mệt mỏi….
Từ những ý kiến như vậy khiến chúng ta nhìn ra vấn đề đó là: Giữa cái “ đã biết” và “ sao còn” là cả một quá trình dài. Nếu đã biết mà không sửa đổi và không tìm ra phương hướng để khắc phục thì phiền não vẫn còn hoài, không bao giờ đổi thay. Điều này chúng ta có thể thấy ở chi tiết:
“Đức Phật cũng thế! Khi dạo quanh bốn cửa thành, Ngài đã hiểu được sự vô thường khi thấy cảnh khổ đau, bệnh tật và cái chết. Đức Phật thấy, biết và hiểu, nhưng nếu để những cái biết đó nằm yên, không tìm ra con đường thoát khổ thì làm sao hết khổ được. Chúng ta phải nhìn nhận vấn đề này”.
Giữa cái biết và sao còn là khoảng cách rất dài. Cuộc đời Đức Phật đã chứng minh được. Để xóa đi phiền não mà Ngài đã biết, Đức Phật đã đánh đổi mọi quyền lợi trong tay, ròng rã suốt 6 năm trong rừng già và sau 49 ngày thiền định mới thật sự loại sạch phiền não.
Cho nên, biết là một vấn đề, và làm sao dứt phiền não là một vấn đề khác. Cái biết không giải quyết được điều gì nếu chúng ta không đứng lên và hành động, thì cho dù biết nó lâu dài đến đầu thì vẫn không thay đổi được gì cả.
Đã biết vô thường sao còn phiền não? Chúng ta phải nhận diện được chữ “biết” này. Biết không phải là thấy rồi biết mà phải có sự cảm nhận, đặt trí tuệ vào đó để biết sự vật, và mong muốn khắc phục cái biết đó. Biết chính là tri cũng nhà thiền. Tri được được tạo từ cái biết bằng tuệ giác, bằng chánh niệm và phải hành trì cái biết đó.
Hòa thượng Thích Thanh Từ có dạy rằng: Biết vọng không theo. Vọng chính là những ý niệm mang tính vô thường, có đó mất đó. Nên khi nhận định được tính giả tạm của ý niệm mà không theo nghĩa là không để tâm cho nó dẫn dắt rồi sinh ra sự ảo tưởng xa rời với thực tế.
Tâm Hướng Phật/Tổng hợp!