Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu thuộc về thế giới quan của Đạo Phật. Đại lược thì trong một Tiểu thế giới gồm: Một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, Tứ Đại Bộ Châu…
Đại thiên thế giới còn gọi là Tam thiên đại thiên thế giới do ba lần ngàn thế giới kết hợp lại mà thành. Theo đó thì: Một ngàn Tiểu thế giới hợp lại thành một Tiểu thiên thế giới. Một ngàn Tiểu thiên thế giới hợp lại thành một Trung thiên thế giới. Một ngàn Trung thiên thế giới hợp lại thành một Đại thiên thế giới.
Một Tiểu thế giới có một Lục Dục thiên, tức gồm có: Một mặt Trăng và một mặt Trời, một núi Tu Di và một Tứ đại châu. Trái đất nơi chúng ta đang sống đây thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, một trong Tứ đại châu thiên hạ của một Tiểu thế giới.
Lại có vô lượng vô biên các cõi Tam thiên đại thiên thế giới. Mỗi Đại thiên thế giới tức là một Phật độ. Nghĩa là mỗi cõi đều có chư Phật hiện thân giáo hóa chúng sanh.
1. Một Tiểu thế giới trong Đại thiên thế giới
Để nhìn được sự vô biên của Đại thiên thế giới, ta phải nắm đại lược về một Tiểu thế giới. Tiểu thế giới gồm 6 phần chính yếu:
- Một mặt trời và một mặt trăng
- Núi Tu Di Làm trung tâm
- Tứ Châu thiên hạ
- Địa Ngục
- Thiên Xứ Ở Núi Tu Di
- Cõi Không cư Thiên
Tiểu thế giới được ba lớp bao bọc. Lớp nhất ở trong gọi là Kim luân, lớp thứ hai gọi là Thủy luân, lớp thứ ba là Phong luân. Ngoài Phong luân lại có hư không rộng rãi vô biên tế. Theo đó thì: Kim luân an trụ nơi Thủy luân, Thủy luân an trụ nơi Phong luân, Phong luân an trụ nơi hư không.
2. Tam Luân Bao Bọc
Tiểu-thế-giới được ba lớp bao bọc. Lớp nhất ở trong gọi là Kim luân (lớp cứng chắc), bề thâm hậu 3 lạc-xoa 20000 du-thiện-na, bề rộng 12 lạc-xoa 3.450 du-thiện-na. (Mỗi lạc-xoa là một ức, số ức thời xưa có bốn bậc: 100.000, 1.000.000, 10.000.000, 100.000.000 du-thiện-na, tức do-tuần, do-tuần cũng có ba bậc: 16 dặm, 30 dặm, 60 dặm).
Ngoài Kim luân, có lớp thứ hai gọi là Thủy luân, bề thâm hậu 8 lạc-xoa du-thiện-na, bề rộng cũng 12 lạc-xoa 3.450 du-thiện-na. (Thủy luân khi còn là hơi nước, chưa bị gió thổi đọng lại, bề thâm hậu đến 11 lạc-xoa 20.000 du-thiện-na). Do nghiệp lực của chúng sanh, nước không tan rã như thức ăn, khi chưa tiêu không sa vào thục tạng.
Ngoài Thủy luân, có lớp thứ ba là Phong luân, bề thâm hậu 16 lạc-xoa du-thiện-na, bề rộng có vô số du-thiện-na.
Ngoài Phong luân lại có hư không rộng rãi vô biên tế.
Kim luân an trụ nơi Thủy luân. Thủy luân an trụ nơi Phong luân. Phong luân an trụ nơi hư không.
(Trích luận Câu Xá, theo các Kinh luận khác như Trường A Hàm Kinh, Khởi Thế Kinh, Khởi Thế Nhân Bản Kinh, Lâu Thán Kinh, Lập Thế A Tỳ Đàm Luận, thì có chỗ lại thêm vào Địa luân, về bề thâm hậu cùng bề rộng của mỗi luân có đôi chút sai khác).
3. Chín Núi Tám Biển
Một Tiểu thế giới có một núi Tu Di làm trung tâm điểm; đó là lớp núi thứ nhất. Núi Tu Di an trụ nơi Kim luân, hình thể trên dưới rộng ra, khoảng giữa eo lại, bề cao từ mặt nước trở lên 80.000 do-tuần (có chỗ nói 84.000 do-tuần).
Ngoài núi Tu Di có một vòng biển nước thơm gọi là Hương thủy hải, chiều ngang cũng rộng 80000 do-tuần. Kế biển nầy đến lớp núi thứ hai là Trì Song Sơn, bề cao từ mặt nước trở lên 40.000 do-tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang rộng 40.000 do-tuần.
Kế biển nầy đến lớp núi thứ ba là Trì Trục Sơn bề cao từ mặt nước trở lên 40.000 do-tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 20.000 do-tuần.
Kế biển nầy đến lớp núi thứ tư là Chiêm Mộc Sơn, bề cao từ mặt nước trở lên 10.000 do-tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 10.000 do-tuần.
Kế biển nầy đến lớp núi thứ năm là Thiện Kiến Sơn, bề cao từ mặt nước trở lên 5.000 do-tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 5.000 do-tuần.
Kế biển nầy đến lớp núi thứ sáu là Mã Nhĩ Sơn, bề cao từ mặt nước trở lên 2.500 do-tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng….
… Như thế có tất cả chín lớp núi, tám lớp biển. Núi Tu Di do bốn chất báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Bảy lớp núi kế gọi là Thất Kim Sơn, đều do chất vàng tạo thành. Núi Thiết Vi do chất sắt tạo thành. Tu Di Sơn là chỗ chư thiên, chư thần ở. Thất Kim Sơn là chỗ chư thiên thần và ngũ thông tiên nhân ở. Thiết Vi Sơn là chỗ của chúng Ngạ quỷ, Địa ngục ở.
Chín lớp núi đều an trụ trên Kim luân và chiều sâu từ mặt nước trở xuống đều 80000 do-tuần, chu vi của mỗi núi bằng bề cao từ mặt nước trở lên. Tám lớp biển đều sâu 80000 do-tuần. Bảy biển trước gọi là nội hải, dẫy đầy nước Bát công đức ngọt thơm; một biển sau gọi là ngoại hải, thuộc về vùng nước mặn.
Thế nào là Bát công đức thủy của Hương hải? Ấy là thứ nước có tám đặc tánh: Ngon ngọt, mát mẻ, trong sạch, nhu nhuyễn, nhẹ nhàng, trơn nhuần, thơm tho không mùi hôi, uống vào trừ đói khát và bịnh hoạn, uống vào có thể trưởng dưỡng các căn (theo các Kinh luận khác, chiều rộng của mỗi biển, và chiều sâu của mỗi núi từ mặt biển trở xuống có hơi sai biệt).
4. Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu
Bốn đại-bộ-châu vị trí ở vào vùng biển thứ tám là Đại Hàm Thủy hải.
Nam Thiệm Bộ Châu
Phía nam núi Tu Di là phương vị của Nam Thiệm Bộ Châu. Châu nầy cũng có tên là Diêm Phù Đề, vì ở phương bắc của bản châu có thứ cây Diêm phù, dưới cây ấy có chất vàng rất quý tên là Diêm phù na đàn. Hình thế châu Nam Thiệm Bộ phương bắc rộng, phương nam hẹp, chu vi độ 7000 du-thiện-na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu. Đây là Châu mà chúng ta đang ở.
Đông Thắng Thần Châu
Phía đông núi Tu Di là Đông Thắng Thần Châu. Châu nầy tiếng Phạm gọi là Tỳ Đề Ha hay Phất Bà Đề. Châu Thắng Thần hình bán nguyệt, phương đông hẹp, phương tây rộng, chu vi độ 9000 du-thiện-na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.
Tây Ngưu Hóa Châu
Phía tây núi Tu Di là châu Cù Đà Ni, cũng gọi là Ngưu Hóa Châu. Nhân dân ở châu nầy dùng trâu, bò, ngựa, châu báu, để mua bán, đổi chác vật dụng cho nhau, nên do đó mà được mệnh danh. Lập Thế Luận thì cho rằng ở châu nầy có một quả núi rất to, hình giống như con trâu, vì thế nên được gọi là Cù Đà Ni. Tây Ngưu Hóa Châu địa hình như mặt trăng tròn, chu vi độ 8000 du-thiện-na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.
Bắc Câu Lư Châu
Phía bắc núi Tu Di là Bắc Câu Lư Châu, cũng gọi là Uất Đan Việt. Cảnh sắc và nhơn vật ở châu nầy đều hơn ba châu kia. Về y báo thì tại bản châu non sông tú lệ; cây cỏ thanh u, nhiều hồ ao trong mát, hoa quả đủ màu sắc tốt tươi. Các loài chim như bạch nga, hồng, nhạn, oan ương kêu hót giao hòa khắp nơi. Khí hậu quanh năm mát mẻ trong lành; không có gai góc cùng loài ruồi, muỗi, độc trùng; các thứ gạo thơm tự nhiên sanh ra, đầy đủ vị ngon.
Về chánh-báo thì loài người ở đây toàn là giống da trắng, khỏe mạnh sống lâu, thân hình cao lớn xinh đẹp. Khi muốn ăn, họ lấy gạo thơm để trong bảo khí, phía dưới đặt hạt châu Diệm Quang Ma Ni; trong giây phút ánh sáng hạt châu tắt là gạo đã chín. Lúc muốn cần dùng y phục, vật dụng, họ đến cây Hương thọ hái trái chín; trái nầy tự nứt ra, trong ấy có đủ y phục tốt đẹp, hoặc đồ dùng, hoặc thức ăn.
Muốn nghỉ mát, họ đến dưới cây Khúc-cung; cây nầy cành lá dày nhặt xanh tươi, nắng mưa không lọt, có thể nằm ngủ ở dưới mà không lo ngại. Muốn dạo chơi, họ xuống bảo thuyền bơi nhẹ theo sông hồ; đề huề đàn sáo, khúc ca tiếng nhạc hòa điệu lẫn nhau, âm thanh du dương trong trẻo nhiệm mầu. Khi bầy đoàn tắm gội, họ xếp y phục để trên mé hồ; ai lên trước cứ gặp cái nào mặc ngay cái ấy, không cần tìm chọn đồ của mình; mặc xong cũng hóa vừa vặn xinh đẹp như y phục cũ.
Người ở Bắc Câu Lư Châu hình mạo đều đồng, không có tật bịnh; tóc chỉ rủ xuống tới chân mày, màu xanh biếc. Lúc nghĩ đến sự dục lạc, người nam chăm chú nhìn người nữ; nếu bên nữ đồng ý, thì đem nhau đến vườn cây. Như nữ nhơn với nam nhơn vốn là người thân thuộc thì cây Khúc-cung không phủ xuống, mỗi bên tự tản đi. Nếu không phải người trong thân, tự nhiên cây phủ xuống chụp úp kín đáo, hai bên tùy ý ân ái từ một ngày đến bảy ngày rồi phân tán.
Người nữ mang thai độ bảy tám ngày liền sanh. Lúc sanh ra, dù là trai hay gái, cũng đem để ở ngã tư đường; mỗi người đi qua đều đến đưa ngón tay vào miệng đứa bé, từ trong ngón tay tuôn ra chất sữa ngọt, hài nhi được no đủ. Như thế đến ngày thứ bảy, đứa bé cao lớn như thường nhơn; con trai thì đi theo đoàn người nam, con gái đi theo đoàn người nữ.
Đất ở châu nầy nhu nhuyễn, dân chúng khi đi, chân đạp đến đâu đất nơi ấy tự êm dịu bằng phẳng. Lúc người đại tiểu tiện, đất tự nứt ra, khi xong rồi, cũng tự khép lại. Nhơn dân ở châu Uất Đan Việt thọ lượng đều đúng 1.000 tuổi, nên khi chết không ai khóc lóc tang điếu. Kẻ chết được đồng bọn gói gắm kỹ, đem để nơi đường vắng. Liền đó có loại chim to lớn tên là Ưu Uất Thiền Già gắp thây đem đi xa bỏ nơi khác. Chúng sanh ở nơi đây sở dĩ được phước báo như thế, là do vì đời trước có tu Thập thiện nghiệp.
Châu Bắc Câu Lư hình vuông, chu vi độ 10.000 do-tuần, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.
Các Kinh luận đều nói, hình dáng của châu nào ra sao, thì khuôn mặt của dân chúng châu đó cũng như thế ấy. Như người ở Nam Thiệm Bộ Châu, khuôn mặt phần nhiều trên lớn dưới nhỏ. Người ở Đông Thắng Thần Châu khuôn mặt tương tợ hình bán nguyệt. Người ở Tây Ngưu Hóa Châu khuôn mặt như trăng tròn. Người ở Bắc Câu Lư Châu khuôn mặt hơi vuông.
5. Thiên Xứ Ở Núi Tu Di
Tứ Thiên Vương và tùy thuộc
Như trên đã nói, núi Tu Di hình thế khoảng giữa eo lại, trên dưới rộng ra. Từ mặt nước lên đến giữa núi Tu Di có bốn tầng cấp. Tầng cấp thứ nhất bao vòng quanh núi là chỗ ở của thần Kiên Thủ. Tầng cấp thứ hai bao vòng quanh núi là chỗ ở của thần Trì Hoa Man. Tầng cấp thứ ba bao vòng quanh núi là chỗ ở của thần Thường Phóng Dật. Ba xứ sở nầy là nơi ở các thần dưới quyền thống lãnh của Tứ Thiên Vương. Tầng cấp thứ tư bao vòng quanh núi là trụ xứ của bốn vị thiên vương, gọi là Tứ Thiên Vương.
Tứ Thiên Vương thống lãnh chư thần ủng hộ bốn đại bộ châu.
- Phương đông, giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Trì Quốc thiên vương và chư thiên tùy thuộc. Họ bảo hộ Đông Thắng Thần Châu.
- Phương nam giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Tăng Trưởng thiên vương và chư thiên tùy thuộc. Họ bảo hộ Nam Thiệm Bộ Châu.
- Phương tây giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Quảng Mục thiên vương và chư thiên tùy thuộc. Họ bảo hộ Tây Ngưu Hóa Châu.
- Phương bắc giữa chừng núi Tu Di, là chỗ ở của Đa Văn thiên vương và chư thiên tùy thuộc. Họ bảo hộ Bắc Câu Lư Châu.
Tứ Thiên Vương mỗi vị đều có tám viên đại tướng, chín mươi mốt người con. Theo Trí Luận thì các thần núi, sông, đất, rừng, cây, thành quách, cung điện…. tất cả Quỷ thần đều thuộc về quyền thống nhiếp của Tứ Ðại Thiên Vương.
Như vậy tính ra một Đại thiên thế giới có 1 tỉ núi Tu Di.
Tam thập tam Thiên (Trời Đao Lợi)
Trên đảnh núi Tu Di là xứ sở của trời Đao Lợi (Tam thập tam thiên). Nơi đây địa thế rộng rãi tốt đẹp. Ở bốn góc trên đảnh núi Tu Di có bốn tòa núi nhỏ, bề cao và rộng đều 500 do tuần, có thần Dược Xoa tên là Kim Cương Thủ trụ nơi đây để tuần thị và hộ vệ chư thiên. Chính giữa đảnh Tu Di có khu thành rộng lớn tên là Diệu Kiến. Chỗ nầy là thành đô của trời Đế Thích, lâu các nguy nga tráng lệ, nghiêm sức bằng các thứ tạp bảo.
Xung quanh thành Diệu Kiến có 32 thiên xứ, mỗi nơi do một vị thiên chủ quản trị. Ba mươi hai thiên xứ nầy với trung đô của Đế thích, hợp lại 33 thiên xứ, nên gọi là Tam thập tam thiên. Nếu tính từ mặt đất lên đến cảnh trời Đao-lợi thì khoảng cách là 84.000 do-tuần.
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng: “Ðao Lợi” là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “tam thập tam”, tức là chỉ cõi trời Ba Mươi Ba. Như thế, có phải trời Ðao Lợi nằm ở tầng thứ ba mươi ba không? Không phải! Tuy gọi là cõi trời “Ba Mươi Ba”, nhưng đó không phải do đếm từ dưới lên trên theo thứ tự, như tầng trời thứ nhất, tầng trời thứ hai, rồi đến tầng trời thứ ba,… cho tới tầng trời thứ ba mươi ba. Vậy thì như thế nào? Cõi trời Ba Mươi Ba này vốn nằm chính giữa, và ở bốn phía đông tây nam bắc của cõi trời này thì mỗi phía lại có tám cõi trời. Do đó, tổng cộng có ba mươi hai cõi trời phân bố chung quanh cõi trời Ba Mươi Ba.
Thiên chủ của cõi trời Ba Mươi Ba là Ðế Thích. Trong Kinh A Di Ðà có nói đến “Thích Ðề Hoàn Nhân”, tức là vị Ðế Thích này vậy. Ngoài ra, trong Chú Lăng Nghiêm có câu “Nam Mô Nhân Ðà La Da”, thì Nhân Ðà La Da cũng chính là Thiên Chủ Ðế Thích. Ở cõi trời thì Ðế Thích là một vị Thiên Chủ; còn trong Phật Giáo thì Ngài là một vị Hộ Pháp – Ngài chẳng những không được làm chủ mà ngay cả tòa sen để ngồi cũng không có nữa, Ngài chỉ đứng ở ngưỡng cửa mà thôi!
Thiên Chủ Ðế Thích cũng chính là đấng “Thượng Ðế Vạn Năng” mà người đời thường xưng tụng. Ðúng vậy, Ðế Thích quả là một “đấng vạn năng” – Ngài cai quản tất cả mọi việc ở cõi trời cũng như ở cõi người. Tuy nhiên, giữa Ngài và người thế gian chúng ta chẳng có gì khác biệt lắm. Vì sao? Vì Ngài vẫn còn tâm dâm dục, và vẫn cần ăn uống, ngủ nghỉ; Có khác chăng là ba thứ dục vọng ấy ở Ngài thì nhẹ và tinh tế, chứ không nặng nề và thô thiển như ở phàm phu chúng ta!
Người thế gian chúng ta chỉ không ăn không uống vài bữa là chịu không nổi; Vài ngày không dâm dục là cảm thấy khó chịu, vài hôm không ngủ nghỉ là thấy uể oải, bạc nhược. Còn Trời Ðế Thích thì một trăm ngày không ăn cũng được; Thậm chí hai trăm ngày, ba trăm ngày, hoặc một năm mới ăn một lần cũng chẳng sao; Suốt năm không ngủ cũng vẫn tỉnh táo như thường, và quanh năm không dâm dục cũng chẳng lấy làm phiền. Tuy nhiên, Ngài vẫn chưa đoạn trừ được dục vọng.
Tuổi thọ của chư thiên ở cõi trời Ðao Lợi là một ngàn năm. Một trăm năm của cõi nhân gian chúng ta chỉ là một ngày một đêm ở cõi trời Ðao Lợi. Vậy, quý vị thử tính xem, so với người thế gian chúng ta thì thọ mạng của chư thiên lâu hơn được bao nhiêu năm?
Cõi trời Ðao Lợi rộng tám vạn do-tuần; tất cả tường vách của thành trì nơi đây đều được làm bằng bảy thứ báu. Thành trì của Thiên Chủ Ðao Lợi Thiên là Thiện Kiến Thành, rộng sáu vạn do-tuần; và tất cả cung điện đều được xây bằng những vật liệu quý báu nhất. Ðây cũng là lý do khiến Thiên Chủ Ðế Thích sau khi được sanh về đó rồi thì chỉ muốn ở lại làm chúa trời, chứ không muốn “dọn nhà” đi nơi khác! Mọi thứ xung quanh Ðế Thích toàn làm bằng châu báu; ngay cả nhà cửa phòng ốc cũng được kiến tạo bằng những vật liệu vô cùng quý giá.
Vì được sống ở một nơi đẹp đẽ với những cung điện tráng lệ như thế, nên Ðế Thích khó thể dứt bỏ dục tâm. Ngài lấy làm thỏa mãn, an nhiên hưởng thụ phước trời, và cho rằng đó là nơi vui sướng nhất. Chẳng những thế, Ngài còn kêu gọi tất cả chúng sanh hãy sanh về “thiên quốc” – thế giới của Ngài.
Ðối với Ngài, cõi trời Ðao Lợi là một thế giới đầy vui thú; Do đó, ai thích thì cứ đến ở, Ngài sẵn lòng hoan nghênh tất cả. Ngài cho rằng Ngài rất khảng khái, rộng lượng. Vì lúc nào cũng hoan hỷ nghênh đón mọi người đến ở và cùng an hưởng phước lạc của cõi trời với Ngài; Tuy vậy, Ngài không biết rằng sở dĩ bản thân mình chưa thoát khỏi vòng sanh tử là bởi mình còn tham đắm dục lạc!
Vì sao Ngài được làm Thiên Chủ? Có phải là trước tiên thì làm Ðịa Chủ (chúa đất), rồi sau đó được thăng chức làm Thiên Chủ (chúa trời)? Hay là phải từ địa vị Ðịa Chủ rồi lên Nhân Chủ (chúa nhân gian), sau đó mới từ Nhân Chủ mà thăng lên làm Thiên Chủ? Không phải! Thế thì nhờ đâu mà Ngài được làm Thiên Chủ?
Vào thời Ðức Phật Ca Diếp, vị chúa trời Ðế Thích này là một người con gái từng phát tâm xây cất ngôi tháp thờ Phật Ca Diếp. Do nhân duyên gì mà cô phát tâm như thế? Thuở ấy, nhân thấy một ngôi miếu đổ nát và mất nóc. Trong miếu có pho tượng Phật đã bị mưa gió làm loang lổ lớp vàng thếp trên mặt, cô cảm thấy rất đau lòng: “Chao ôi! Tượng Phật này đã bị nhện giăng bụi bám, bây giờ lại còn phải chịu cảnh gió táp mưa sa…Tôi thật không đành lòng!”.
Thế là cô ta phát tâm sửa sang ngôi cổ miếu ấy lại cho trang nghiêm. Tuy nhiên, vì không có tiền, cô ta bèn tìm đến bạn bè và những người thân thuộc, nói với họ rằng: “Tôi muốn xây dựng lại ngôi cổ miếu nọ nhưng không có tiền. Chẳng hay quý vị có thể giúp tôi một tay không? Quý vị ai có người thân thì kêu gọi người thân, ai có bạn bè thì kêu gọi bạn bè; chúng ta hãy hợp lực để làm một việc từ thiện, cùng nhau trùng tu ngôi cổ miếu này.”
Bạn bè và bà con quyến thuộc của cô gái này đều hăng hái hưởng ứng: “Ðược, tất cả chúng ta hãy hợp tác để trùng tu ngôi cổ miếu!”. Cô ta tìm được ba mươi hai người có cùng một tâm nguyện với mình, và có lẽ tất cả đều là nữ giới. (Ðiều này không thể kiểm chứng qua lịch sử, cũng chẳng thể tra cứu ở đâu được!) Cho dù có phái nam tham gia thì con số cũng rất ít; vì sao ư? Vì nam giới thường tự cho là mình tài giỏi, không thích việc xây chùa dựng tháp, lại còn bảo rằng họ nhường công việc đó cho phái nữ!
Sau khi cô gái khởi xướng và ba mươi hai người nữ ấy hoàn tất việc trùng tu ngôi cổ miếu. Ngoài ra họ còn cùng nhau cất thêm một bảo tháp nữa. Họ cứ kẻ góp công người góp của, ai nấy đều tùy theo khả năng của mình mà góp phần. Nhờ đó việc xây dựng ngôi bảo tháp cũng được thành tựu viên mãn. Ðến khi thọ mạng của ba mươi ba người này đã hết, tất cả đều được sanh lên cõi trời. Lên trời thì mỗi người một cõi, cho nên ba mươi ba người thì có ba mươi ba cõi trời. Vị Thiên Chủ của cõi trời trung ương Ba Mươi Ba – Ðao Lợi Thiên – là Ðế Thích, tức là cô gái khởi xướng việc trùng tu ngôi cổ miếu thuở trước. Ðó là sự tích của cung trời Ðao Lợi.
Tâm Hướng Phật/Th!