Chấp niệm là gì? Buông bỏ chấp niệm với người khác cũng chính là buông tha cho chính mình? Làm sao để chúng ta có thể buông bỏ chấp niệm?
1. Chấp niệm là gì?
Chấp niệm chính là ý niệm cố chấp tồn tại trong lòng người, là sự day dứt khi đánh mất điều gì đó, hay là những mong muốn mà không thể thực hiện được… nó tạo ra cho con người một vết tích để mỗi khi nghĩ đến lại đau đáu một nổi niềm không biết bao giờ giải tỏa.
Có nhiều loại chấp niệm, nhưng thường có hai loại chính: Chấp niệm về tình cảm và chấp niệm về sự nghiệp.
Chấp niệm về tình cảm: Là sự không cam lòng, day dứt khi bất lực không thể có được người mình yêu thương, hay là sự sai lầm đã đánh mất tình cảm quý giá của mình… Nó là một sự tồn tại dai dẳng cào cấu trầy xước như gai nhọn âm ỉ trong lòng khiến người mang nó khó có thể từ bỏ và cố gắng để đi tiếp dù đánh đổi bằng bất cứ giá nào với hy vọng đạt được mục đích… dĩ nhiên tùy mức độ nặng nhẹ và tùy tâm tính của từng người mang nó.
Chấp niệm về sự nghiệp: Là sự không cam lòng, sự day dứt khi bản thân chỉ là một con số không tròn trĩnh trong cõi đời này, hoặc mơ ước khát khao được vươn lên tầm cao trong xã hội, có được công danh sự nghiệp ổn định làm rạng rỡ tổ tông dòng họ và ngẩng cao đầu trước thiên hạ mà không có gì phải hổ thẹn khi được làm người. Chấp niệm này tạo cho người mang nó một động lực thôi thúc mạnh mẽ khiến bản thân phải học hỏi, phấn đấu để đạt được mục tiêu dù phía trước có gian khổ thế nào rồi cũng sẽ đạt được thành công…
2. Câu chuyện nhỏ về chấp niệm
Một đứa trẻ thò tay vào trong lọ lấy kẹo, nó muốn một lần lấy được nhiều chiếc nên đã lấy một nắm to, kết quả là tay bị mắc ở miệng lọ, làm thế nào cũng không thể rút ra được, sợ đến nỗi bật khóc. Ông nội nhìn thấy dáng vẻ lo lắng của cháu, chậm rãi nói: “Xem kìa! Cháu vừa không muốn bỏ lại số kẹo đó, lại vừa muốn rút tay ra, chi bằng biết đủ một chút, lấy ít đi một chút, nắm tay nhỏ lại tự nhiên sẽ có thể dễ dàng rút tay ra thôi!”
Trong cuộc sống tâm linh, để “có được” thì cần có đầu óc thông minh, còn muốn “từ bỏ” thì lại càng cần có trí tuệ và dũng khí. Con người lúc nào cũng chỉ mưu cầu chiếm hữu mà rất ít khi biết từ bỏ đúng lúc. Vì vậy, người có tiền thì bị tiền bạc làm cho mệt mỏi, còn người có tình cảm thì bị tình cảm làm tổn thương…
Biết từ bỏ, dĩ nhiên không phải là yêu cầu chúng ta không làm gì cả, mà là sau khi hành động thì không nên đặt quá nặng yếu tố thành – bại, được – mất: tiền dĩ nhiên phải kiếm, nhưng sau khi kiếm được thì phải chi dùng thích hợp chứ không nên giống như Grandet ôm chặt tiền không chịu bỏ ra; tình cảm nên hi sinh, nhưng không cần nhất định phải được báo đáp…
Trong mắt người bình thường, vạn sự vạn vật của thế gian đều là vật thực, con người luôn nhìn nhận vạn vật thế gian bằng con mắt vốn có, dùng con mắt thế tục để đánh giá tất cả sự vật, vì thế thường bị những phiền não thị phi làm cho nghi hoặc, cuộc đời thêm biết bao đau khổ nhưng lại không biết làm thế nào để giải thoát.
Muốn giải thoát phiền não trong nhân gian, để tâm tịnh như nước, nếu chỉ đơn thuần dựa vào cái gọi là “thông minh tài trí” thế tục thì mãi mãi là không đủ, rất nhiều khi chúng ta cần đến một dũng khí, đó là dũng khí dám từ bỏ chấp niệm.
Có lẽ rất khổ cực, nhưng cuối cùng có một ngày, bạn sẽ phải học cách không quay đầu lại, tiêu sái đi về phía trước. Nhưng gặp được chuyện tốt, chớ có hỏi tương lai, dù cho lần này mưa gió qua nhanh, cũng mong bạn cuối cùng cũng có thể nói ra câu, “Cuối cùng ta cũng buông bỏ được người, cũng buông tha cho mình.”
3. Chấp là nguồn gốc của đau khổ
Có người cầm cục gạch chọi con chó, con chó bị trúng gạch đau điếng nên tức quá quay sang cục gạch sủa tới tấp. Nó không biết ai là thủ phạm mà chỉ biết cục gạch làm nó đau. Cũng vậy, cái làm cho chúng ta đau khổ không phải do bên ngoài mà chính là sự ngu si, mê muội chấp trước của mình tạo ra.
Vô minh hay còn gọi là si mê, muốn định nghĩa cho mọi người thấu đáo rõ ràng không phải là chuyện dễ, chỉ khi nào chúng ta thật sự trải nghiệm trong đau khổ mới cảm nhận được thực tướng của nó.
Vô minh theo triết học Phật giáo là không thấu rõ luật nhân quả, lý nhân duyên và nguyên nhân của sự khổ và cách thức diệt khổ, không thấy được thực tánh của các pháp, không thấy được sự thật của cuộc đời, không nhận ra ông chủ hay Phật tính nơi mỗi con người và là cái thấy không sáng suốt bị tối tăm che phủ. Vô minh là cái thấy sai lầm về thân và tâm suy tư, nghĩ tưởng là thật. Nhân quả rất công bằng, sòng phẳng, khi đã gieo nhân thiện hoặc ác dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi. Người thấu rõ nhân quả sẽ không bao giờ dám làm các điều xấu ác mà ngược lại hay làm các việc thiện lành tốt đẹp.
Do si mê, tham đắm chấp thân – tâm làm ngã, từ đó muốn chiếm hữu về mình nên suy nghĩ, hành động sai lầm, thấy có ta, người và muôn loài, muôn vật nên bám chấp vào đó. Ý là đầu dây mối nhợ của phiền não, nó thường hay suy tư, nghĩ ngợi nên gọi là ý nghĩ; nó hay nhớ nghĩ về quá khứ hoặc hiện tại gọi là ý niệm; nó hay tưởng tượng, mơ mộng hão huyền nên gọi là ý tưởng và nó có công năng phân biệt, hiểu biết nên gọi là ý thức.
Do phân biệt, hiểu biết sai lầm nên ý thức không rõ được thực tướng của các pháp là vô ngã, không chủ thể cố định, từ đó sinh ra thấy biết sai lầm mà chấp ta, người, chúng sinh. Sự bám víu vào “cái ta” rồi đến “cái của ta” như vợ ta, con ta, nhà ta, tài sản của ta, đất nước của ta. Dưới cái nhìn của người thế gian như thế đâu có gì sai quấy, thế gian này nếu không bám víu vào “cái ta” và “của ta” thì con người sẽ sống ra sao?
Vì cuộc sống này như vậy nên chúng ta không thể làm khác được, còn sự sống là còn có tham muốn, nhưng ta phải tham muốn thế nào cho phải lẽ. Ở đây Phật vì lòng từ bi chỉ cho ta biết thân – tâm này không thật ngã để mọi người bớt luyến ái, chấp trước mà làm khổ cho nhau. Thật ra, đã làm người khó có ai muốn ít biết đủ, chỉ một bề mong cầu được nhiều mà không bao giờ nhàm chán. Tham muốn càng nhiều thì tội lỗi càng phát sinh, càng gây ân oán, hận thù cho nhau không có ngày thôi dứt.
Người phật tử chân chính thường muốn ít biết đủ để sống cuộc đời thanh nhàn, không phải lao tâm nhọc trí và luôn lấy trí tuệ làm gốc để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Tiền của, vật chất, danh lợi, sắc đẹp chỉ là phương tiện để chúng ta vui sống mà dấn thân phục vụ. Bồ tát biết được tác hại của nó nên không say mê, đắm nhiễm, do đó cùng mọi người đồng hành để giúp họ vượt lên chính mình.
Thế giới chúng ta đang sống hiện giờ là cõi dục, là cõi mà lòng tham muốn của con người không bến bờ nhất định như giếng sâu không đáy. Người nghèo khổ thiếu trước hụt sau luôn tham cầu có nhiều tiền của thì không chuyện gì đáng nói; bằng ngược lại, người giàu có bao nhiêu cũng không thấy vừa lòng nên cứ làm cả ngày lẫn đêm không khi nào biết đủ.
Người muốn ít biết đủ dù có thiếu một chút cũng không sao, vì cuộc sống lúc nào cũng an vui, hạnh phúc. Người nhiều tham muốn thì phải chịu khổ triền miên không có ngày dừng, khi chưa được thì tham cầu, mong muốn cho bằng được nên phải khổ; khi được rồi thì sợ mất mát nên cố gắng giữ, do đó càng khổ; giữ không được nên bị mất mát, lại càng khổ hơn; rốt cuộc khổ, khổ, khổ, có khi khổ rồi không muốn sống nữa.
Vậy khổ là do ai? Có ai buộc mình khổ không? Chỉ có mình làm khổ mình thôi. Biết được như vậy rồi chúng ta có nên tham muốn quá đáng hay không? Đa số người thế gian hay bám vào tiền bạc, của cải, vật chất mà quên đi phần tâm linh nên sẵn sàng giết hại lẫn nhau dù đó là người thân.
Từ những năm 90 trở về trước, khi đất nước chúng ta chưa phát triển, đất đai còn quá rẻ nên cuộc sống nhiều người rất ấm êm, hạnh phúc, ít ai nghĩ đến phần lợi nhuận. Đất nước về sau dần chuyển mình theo năm tháng, đất đai bắt đầu có giá, nhiều gia đình tiền mất tật mang vì tranh chấp, kiện tụng nên người thân hóa kẻ thù; cuối cùng hai bên đều trắng tay và tình nghĩa anh chị em, cha con, chồng vợ, cháu chắt trở nên xa lạ. Kẻ chết, người ngồi tù, con thưa cha mẹ chỉ vì bờ ranh đất.
Tâm Hướng Phật!