Phàm chúng sanh bất cứ khổ nạn gì, chỉ cần chí tâm niệm Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ được Ngài theo nguyện lực mà âm thầm gia bị cho khỏi khổ được an.
Địa Tạng Bồ Tát là vị mang trong mình chân tâm vô lượng giống như kho báu vô biên về Phật pháp, sẵn sàng trải rộng khắp chúng sinh đều được hưởng công đức tràn đầy. Ngài chính là đất đai rộng lớn, sâu xa, mọi giới mọi loại đều hưởng, không phân biệt, không có định mức.
Đối với Phật giáo, Địa Tạng Bồ Tát là một trong những vị có vị trí vô cùng quan trọng, được tôn xưng là Tứ đại Bồ Tát với pháp lực vô biên, từ bi vô hạn. Sự tích nổi bật nhất về Ngài là lời nguyện cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi vào thời kì sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn và trước khi Di Lặc Bồ Tát hạ sinh.
Ngài có nhân duyên sâu nặng với chúng sinh, gánh trọng trách giáo chủ toàn cõi trong một thời gian, chứng tỏ được sức mạnh và đức độ của Ngài. Sức mạnh ở đây không chỉ là pháp lực, từ bi mà còn là lòng cảm hóa và phẩm chất đạo hạnh tu hành. Chỉ vị Bồ Tát có đầy đủ những yếu tố này mới có thể đứng ra thuyết giảng Phật pháp, dẫn dắt chúng sinh tới cõi Phật.
Xuất phát từ lời nguyện chưa thành Phật khi địa ngục chưa hết chúng sinh nên Địa Tạng được xem là vị Bồ Tát của chúng sinh dưới địa ngục hay giáo chủ cõi U Minh. Dùng tấm lòng và trí huệ của mình cảm hóa chúng sinh hướng tới sự an nhiên bất động như đại địa, tĩnh lặng và sâu kín như tàng chứa bí mật, đúng với tinh thần của danh xưng Địa Tạng.
Đại nguyện của Địa Tạng Bồ Tát là cứu vớt tất cả chúng sinh đang chìm đắm trong u mê tăm tối, lầm lối lạc đường được tới cõi Niết Bàn. Với tinh thần và sức mạnh vô biên, không quản ngại khó ngăn trở lực, không chuyển tâm đổi ý, không xa rời hạnh nguyện ban đầu.
Trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện ở quyển hạ dạy rằng: “như có những người nào ăn mặc không đủ, cầu chi cũng không toại nguyện, hoặc thân nhiều tật bịnh, hoặc nhiều sự hung suy, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc chia lìa, hoặc các sự tai vạ cứ đến khuấy nhiễu nơi thân luôn, trong giấc mộng thường phải kinh sợ. Những người như thế đó, khi nghe danh hiệu của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, thấy hình tượng của Ðịa Tạng Bồ tát nên CHÍ TÂM CUNG KÍNH NIỆM ĐỦ MỘT MUÔN BIẾN, thời những sự không toại ý trên đó sẽ tiêu sạch lần lần, liền đặng an vui, đồ ăn mặc dư dật, cho đến trong giấc mộng thảy đều an ổn vui vẻ.”
Trong Kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân, đức Phật dạy: “Nếu có ai chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát thì sẽ đạt được các thứ lợi ích, an lạc.” Kinh dạy:
19 Lợi ích lớn khi niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát:
Trích kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân!
Hán dịch:Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang!
1. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình do mong cầu các thứ, bị buồn khổ bức bách, có thể chí tâm niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường ngài đại Bồ-tát Địa Tạng thì đều được tất cả mong cầu như pháp, xa lìa các buồn khổ, tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay được Niết-bàn.
2. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình bị đói khát bức bách, có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì đều được đầy đủ tất cả thức ăn uống mong cầu như pháp. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay được Niết-bàn.
3. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình thiếu thốn các thứ y phục, đồ trang sức quý báu, thuốc men, giường nằm và các vật dụng, có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì đều được đầy đủ tất cả y phục, đồ trang sức quý báu, thuốc men, giường nằm và các vật dụng mong cầu như pháp, tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
4. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình điều ưa thích lại bị xa lìa, oán ghét lại hội họp mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được ưa thích được hội họp, oán ghét thì xa lìa. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
5. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình thân tâm buồn khổ, các bệnh làm đau đớn mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thân tâm an lạc, các bệnh tiêu trừ. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
6. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình chống trái nhau gây ra các việc đấu tranh mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều bỏ tâm độc hại, hòa hợp với nhau, vui vẻ, nhẫn nhịn nhau, lần lần hối lỗi, hổ thẹn, có tâm từ với nhau. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
7. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình bị nhốt trong lao ngục, bị gông cùm, xiềng xích trói thân, chịu đủ các khổ mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thoát khỏi lao ngục, xiềng xích, gông cùm, được tự do, vui vẻ. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
8. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình đang bị tù, bị đánh đập bằng roi vọt, tra khảo rất đau đớn, sắp bị giết hại mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thoát khỏi tù tội, đánh đập bằng roi vọt, giết hại. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
9. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình thân tâm mệt mỏi, khí lực suy yếu mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thân tâm thoải mái, khí lực mạnh mẽ. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
10. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình không đủ các căn, hoặc bị tổn hại mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được đầy đủ các căn, không bị tổn hoại. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
11. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình tâm loạn điên cuồng, bị ma quỷ làm mê mờ mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được tâm không cuồng loạn, lìa các quấy nhiễu. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
12. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình bị tham dục, sân giận, ngu si, giận hờn, bỏn xẻn, ganh ghét, kiêu mạn, ác kiến, ngủ nghỉ, buông lung, nghi ngờ… đều rất hừng hẫy, làm não loạn thân tâm, thường không an lạc mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được xa lìa tham dục…, thân tâm an lạc. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
13. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình bị lửa thiêu đốt, bị nước cuốn trôi, bị gió thổi bay, hoặc ở trên núi cao, cây cao, nhà cao, bị té rơi xuống rất sợ hãi kinh hoàng mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thoát khỏi ách nạn, được an ổn, không tổn hại. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
14. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình bị các rắn độc, trùng độc đốt chích, hoặc bị trúng các thuốc độc mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được xa lìa các thứ làm khổ hại. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
15. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình bị ác quỷ bắt làm cho bị bệnh, hoặc hàng ngày phát bệnh, hoặc cách ngày phát, hoặc ba bốn ngày phát một lần, hoặc làm cho thân tâm cuồng loạn, run rẩy, mê muội không biết gì mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thoát khỏi, thân tâm an ổn, không còn sợ hãi. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
16. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình bị các quỷ dược-xoa, la-sát, ngạ quỷ, quỷ Tất-xá-già, quỷ Bố-đát-na, quỷ Cưu-bạn-trà, quỷ Yết-tra-bố-đát-na, quỷ hút tinh khí và các ác thú: cọp, sói, sư tử; các chú thuật yếm độc, giặc thù, quân trận và các việc sợ hãi khác quấy nhiễu làm cho thân tâm kinh hoàng, khiếp sợ, mất thân mạng, sợ chết, tham sống, chán khổ, cầu vui mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được xa lìa các sợ hãi, được bảo toàn thân mạng. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
17. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình hoặc vì nghe nhiều, hoặc vì tịnh tín, hoặc vì tịnh giới, hoặc vì tịnh lự, hoặc vì thần thông, hoặc vì Bát-nhã, hoặc vì giải thoát, hoặc vì sắc đẹp, hoặc vì tiếng hay, hoặc vì hương thơm, hoặc vì vị ngon, hoặc vì xúc chạm êm ái, hoặc vì lợi dưỡng, hoặc vì tiếng khen, hoặc vì công đức, hoặc vì khéo léo, hoặc vì hoa quả, hoặc vì rừng cây, hoặc vì giường tòa, hoặc vì đồ nằm, hoặc vì đường đi, hoặc vì của cải, hoặc vì thuốc men, hoặc vì nhà cửa, hoặc vì tôi tớ, hoặc vì hình sắc, hoặc vì mưa ngọt, hoặc vì mong cầu nước, hoặc vì cấy gặt, hoặc vì quạt phẩy, hoặc vì gió mát, hoặc vì cầu lửa, hoặc vì xe cộ, hoặc vì nam nữ, hoặc vì phương tiện, hoặc vì tu phước, hoặc vì ấm áp, hoặc vì mát mẻ, hoặc vì nhớ nghĩ, hoặc vì các việc lợi ích thế và xuất thế gian…, trong lúc tìm cầu các việc ấy bị buồn khổ bức bách mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì vị thiện nam tử với công đức, định lực, thần thông thù thắng làm cho tất cả đều xa lìa buồn khổ, thỏa mãn ý nguyện. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
18. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình gieo các hạt giống ở ruộng hoang hoặc ruộng tốt, hoặc siêng năng làm việc, hoặc không làm việc mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì thiện nam tử này với công đức, định lực, thần thông thù thắng làm cho tất cả cây trái đều được mùa. Vì sao? – Vì thiện nam tử này từng trải qua vô lượng vô số đại kiếp ở vô số cõi Phật Thế Tôn thời quá khứ phát đại thệ nguyện kiên cố, tinh tấn; do năng lực nguyện này vì muốn giáo hóa các hữu tình nên thường thống lãnh tất cả đại địa, thường nắm giữ tất cả hạt giống, thường làm cho tất cả hữu tình tùy ý sử dụng. Năng lực thần thông của vị thiện nam tử này hay làm cho tất cả cây cỏ, gốc rễ, mầm, cọng, cành, lá, hoa, quả ở khắp đại địa đều sanh trưởng từ mầm non, hoa quả tươi tốt, trái chín mọng, hương vị thơm ngọt.
19. Ở trụ xứ nào, nếu các hữu tình tham, sân, si hừng hẫy, tạo ra mười ác nghiệp: sát sanh, hoặc không cho mà lấy, hoặc tham dục tà hạnh, hoặc nói dối trá, hoặc nói thô ác, hoặc nói lời ly gián, hoặc nói lời tạp uế, hoặc tham, hoặc sân, hoặc tà kiến mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả phiền não đều tiêu trừ, xa lìa mười điều ác, thành tựu mười điều lành; đối với các chúng sanh phát tâm từ bi, làm lợi ích. Vị thiện nam tử này thành tựu công đức, định lực, thần thông, dũng mãnh, tinh tấn như vậy, trong khoảng một bữa ăn có thể ở vô lượng vô số cõi Phật, ở mỗi quốc độ trong khoảng một bữa ăn đều có thể độ thoát, giáo hóa vô lượng vô số căng-già-sa hữu tình, làm cho xa lìa các khổ, đều được an vui. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sanh thiên hay Niết-bàn.
Tâm Hướng Phật!