Bộ kinh Lương Hoàng Bảo Sám là một bộ kinh điển hình của việc sám hối nghiệp chướng, bộ kinh này có công năng diệt tội, diệt trừ oan gia nhiều đời, nhiều kiếp.
1. Nguồn gốc và ý nghĩa của Kinh Lương Hoàng Sám
Phàm là người sanh trong cõi Dục này, trừ các bực đã hoàn toàn giác ngộ, thì không một ai tránh khỏi lỗi lầm, bởi ba nghiệp gây nên. Các tội lỗi dã từ ba nghiệp phát sanh, nên người muốn dứt trừ hết tội lỗi, tất nhiên phải đem ba nghiệp ấy để sám hối, thì tội lỗi mới được thanh tịnh.
Đức Phật dạy: “Nếu không có phương pháp sám hối thì tất cả các Phật tử không một ai mà được giải thoát”. Cũng như nếu không nhờ bộ Lương Hoàng Sám này thì, bà Hy Thị là Hoàng hậu của vua Lương không làm sao thoát khỏi khổ nạn được. Vì thế nên bộ Lương Hoàng Sám này có một hiệu lực mạnh mẽ, làm cho người có tội lỗi được tiêu trừ, phước lành tăng trưởng.
Theo lời tựa trong chính văn thì bộ Lương Hoàng Sám này do Hòa thượng Chí Công biên tập từ đời Vua Lương Võ Đế. Nguyên thời Vua Lương Võ Đế, có một bà Hoàng hậu được Vua yêu quý nhất tên là Hy Thị. Vì được Vua yêu quý nên lòng đố kỵ của bà ngày càng lên cao; Hy Thị ganh tị các cung phi, độc ác với mọi người và hủy báng Tam Bảo. Trong Triều ngoài Quận ai cũng biết Bà Hy Thị là một “quái phi”.
Sau bà nhuốm bệnh nặng, các lương y đều thúc thủ, bà phải từ trần. Một hôm vào lúc đêm khuya, đang ngồi trong cung tĩnh mịch, Vua Lương Võ Đế nghe tiếng người kêu van thảm thiết. Dưới ánh đèn mờ, Vua Lương Võ Đế lạnh cả người, muốn chạy trốn, nhưng không được. Vua bèn lên tiếng hỏi:
– Ngươi là ai mà đêm khuya thanh vắng nghiêm mật thế này lại vào đây được?
– Hoàng đế ơi! Thiếp đây chính là Hy Thị. Vì quá độc ác nên chết rồi thiếp phải đọa làm rắn mãn xà. Ngày đêm đau khổ, thân thể tanh hôi, vi vẩy đều bị sâu trùng rúc rỉa nhức nhối không thể chịu được. Nhớ lại tình cầm sắc xưa kia nên thiếp đến đây mong nhờ Hoàng đế tìm phương cứu thiếp.
Nghe xong, Vua Lương Võ Đế như thoát cơn ác mộng và lòng đau như dao cắt! Hôm sau khi lâm Triều, Vua kể lại chuyện ấy cho bá quan nghe để tìm phương cứu vớt Hy Thị. Trong số các quan có người đề nghị:
– Xin cung thỉnh Hòa thượng Chí Công lo việc này.
Vua lương Võ Đế chấp thuận. Hòa thượng Chí Công là một cao tăng đắc đạo đương thời. Thể theo lời thỉnh cầu của nhà Vua, ngài liền triệu tập các danh tăng soạn ra Sám Pháp này và lập Đàn tràng làm lễ sám hối cho Hoàng hậu Hy Thị.
Nhà Vua chí tâm, thân hành lễ bái. Vài hôm đầu, người ta nghe có mùi hương lạ thơm nức, ngào ngạt khắp cả đạo tràng. Lễ tụng đến quyển thứ năm, ngay tại chỗ, trên không trung, Vua Lương Võ Đế nghe có tiếng của Hy Thị. Bà hiện thân thiên nữ đẹp đẽ, nói tiếng người, tỏ lòng cám ơn Hòa thượng, Hoàng đế. Hy Thị cho biết bà đã thoát nạn và đã sinh lên Đao Lợi Thiên Cung nhờ công đức sám hối. Từ đó Sám Pháp này được truyền tụng khắp nơi, rất thịnh hành.
Toàn bộ kinh Lương Hoàng Sám là những lời sám nguyện giải trừ mọi điều tội lỗi. Cũng vì tụng kinh này rũ sạch được mọi tội lỗi nên nay thường tụng trong việc báo hiếu cha mẹ hoặc ngày giỗ chạp gia tiên.
2. 12 lợi ích khi trì tụng Kinh Lương Hoàng Sám
Chữ “sám” nghĩa là ăn năn, day dứt những tội đã tạo trong quá khứ; chữ “hối” nghĩa là hối hận, hối cải, chừa đổi, không mắc lỗi như vậy giống như trong Tứ Chánh Cần: ngăn ác, diệt ác, sinh thiện và tăng trưởng thiện.
Trong vòng luân hồi từ vô thủy kiếp đến nay, do vô minh mà chúng ta đã tạo vô số tội lỗi: phá diệt Tam Bảo, bất kính cha mẹ, tội sát sinh, hại vật, chửi bới nguyền rủa người,…Những tội nghiệp ấy đã khiến chúng sinh chịu vô lượng sự thống khổ trong địa ngục. Cho nên, việc sám hối tội chướng là vô cùng quan trọng bởi chỉ có Pháp sám hối mới dừng được tội lỗi và mới sạch được tội lỗi cho chúng ta.
Bộ kinh Lương Hoàng Bảo Sám là một bộ kinh điển hình của việc sám hối nghiệp chướng, bộ kinh này có công năng diệt tội, diệt trừ oan gia nhiều đời, nhiều kiếp. Mỗi chữ mỗi câu kinh đều nhằm mục đích đền trả bốn ơn, cứu thoát ba cõi, thay thế lục đạo mà sám hối, cầu nguyện cho tam đồ thoát khỏi trầm luân. Vậy nên việc tụng kinh Lương Hoàng Bảo Sám có 12 lợi ích như sau:
- Nguyện hóa độ sáu đường chúng sinh không có hạn lượng
- Nguyện báo đáp tứ ân không có hạn lượng
- Nguyện nhờ thần lực của Pháp sám này khiến chúng sinh thọ cấm giới của Phật không sinh tâm hủy phạm
- Nguyện nhờ thần lực Pháp sám này khiến các chúng sinh đối với các bậc tôn trưởng không sinh tâm kiêu mạn
- Nguyện nhờ thần lực Pháp sám này khiến cho chúng sinh sinh ra nơi nào cũng không khởi tâm giận hờn
- Nguyện nhờ thần lực của Pháp sám này khiến các chúng sinh đối với sắc thân người khác không khởi tâm ghen ghét sắc thân
- Nguyện nhờ thần lực của Pháp sám này khiến các chúng sinh đối với các Pháp trong thân, ngoài thân không sinh tâm keo rít, mến tiếc
- Nguyện nhờ thần lực của Pháp sám này khiến các chúng sinh hễ làm được phước thiện gì đều không phải vì mình mà làm, chỉ vì những người không có ai ủng hộ, không có ai giúp đỡ mà làm
- Nguyện nhờ thần lực của Pháp sám này khiến các chúng sinh không vì mình mà tu Pháp tứ nhiếp mà chỉ vì hết thảy chúng sinh
- Nguyện nhờ thần lực của Pháp sám này khiến các chúng sinh thấy người cô độc, tù tội, tật bệnh thì sinh tâm cứu giúp cho họ an vui
- Nguyện nhờ thần lực của Pháp sám này khiến người tu hành thấy có chúng sinh nào đáng triết phục thì triết phục, đáng nhiếp thọ thì nhiếp thọ
- Nguyện nhờ thần lực của Pháp sám này khiến chúng sinh sinh ra nơi nào cũng tự nhớ nghĩ đến sự phát tâm Bồ Đề hôm nay, làm cho tâm Bồ Đề tương tục mãi mãi, không bị gián đoạn
3. Nghi thức tụng Kinh Lương Hoàng Sám
KỆ KHAI CHUÔNG
Nghe tiếng chuông phiền não nhẹ,
Trí huệ lớn Giác đạo sanh
Lìa địa ngục khỏi hầm lửa
Nguyện thành Phật độ chúng sanh
Án dà ra đế da ta bà ha (3 lần)
KỆ NIỆM HƯƠNG
Hương giới, hương định cùng hương huệ.
Hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến;
Ðài mây sáng chói trùm cõi pháp,
Cúng dường trước mười phương ngôi Tam Bảo.
Nguyện các hương hoa này,
Trải khắp đến mười phương;
Không lường trong cảnh Tịnh,
Không lường hương trang nghiêm;
Ðầy đủ hạnh Bồ tát,
Thành tựu hương Như Lai.
Nam mô Hương cúng dường Bồ tát. (3 lần)
KỆ PHÁT NGUYỆN
Chúng sanh không ngằn thệ nguyện độ,
Phiền não không cùng thệ nguyện đoạn;
Pháp môn không lường thệ nguyện học,
Phật đạo cao tột thệ nguyện thành.
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ,
Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn;
Tự tánh pháp môn thệ nguyện học,
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành. (3 lần)
Ðệ tử tên… pháp danh… chí tâm khẩn nguyện, chuyên trì lễ bái Lương Hoàng Từ Bi Sám pháp, cầu sanh Tịnh độ, hiện tiền một lòng chẳng rối, tỏ ngộ Vô sanh, ngày khắc mạng tròn báo đủ, sanh về cõi Phật. Trên đài sen báu, hầu Phật nghe Pháp, bạn cùng Bồ tát, vui cảnh Lạc Bang, mau lên quả vị Bất thối, trở lại Ta Bà, hóa độ chúng sanh, làm nên đạo cả.
Nam mô Chứng Minh sư Bồ tát. (3 lần)
KỆ KHEN PHẬT
Ðấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng;
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài;
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ.
Xưng dương cùng tán thán.
Ức kiếp không cùng tận.
QUÁN TƯỞNG
Năng lễ sở lễ tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao năng tư nghì
Ngã thử đạo tràng như đế châu
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ. (1 xá)
ÐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh tăng, thường trụ Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ Ðiều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa Giáo chủ Di Lặc tôn Phật, Ðại trí Văn Thù Sư lợi Bồ tát. Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Linh Sơn hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Lạc bang Giáo chủ Ðại từ bi phụ tiếp dẫn Ðạo sư A Di Ðà Phật, Ðại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát, Thanh Tịnh Ðại hải chúng Bồ tát.(1 lạy)
DƯƠNG CHI
Cành Dương nước tịnh,
Rải khắp ba ngàn.
Tánh không tánh đức,
Lợi lạc trần gian
Cõi pháp rộng thinh,
Tiêu diệt tai nàn.
Ngạ quỉ vui an.
Nam mô Thanh Lương Ðịa Bồ tát ma ha tát. (3 lần)
TỤNG CHÚ ÐẠI BI
Nam mô đại bi hội thượng Phật, Bồ tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, Nam mô a rị da bà lô yết đế thước bác ra da, Bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a lị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê lị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng a thệ dựng, tát bà tát đa na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca la đế, Di hê lỵ, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, lỵ đà dựng. Cu lô cu lô, yết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, Thất Phật ra da. Giá ra giá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na.
A ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, Hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê lỵ, Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế lỵ dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na ta bà ha, tất đà dạ ta bà ha, ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ ta bà ha, Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha, Tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra dạ ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lỵ da, bà lô kiết đế, Thước bàn ra dạ ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà da ta bà ha.(3 lần)
Ðại từ đại bi mẫn chúng sanh,
Ðại hỷ đại xả tế hàm thức,
Tướng hảo quang minh dĩ tự nghiêm.
Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ.
Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo. (3 lần)
Nam mô Quá khứ Tỳ Bà Thi Phật
Nam mô Thi Khí Phật
Nam mô Tỳ Xá Phù Phật
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật
Nam mô Câu Na Hàm Mâu ni Phật
Nam mô Ca Diếp Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Di Lặc Tôn Phật.
BÀI KỆ KHAI KINH:
Pháp vi diệu thâm sâu cao tột,
Trăm ngàn muôn ức kiếp gặp đâu.
Con nay thấy nghe được thọ trì,
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa chơn thật,
Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo. (3 lần)
TỤNG NỘI DUNG LƯƠNG HOÀNG SÁM PHÁP
Xem nội dung Kinh Lương Hoàng Sám Pháp tại đây: Kinh Lương Hoàng Sám trọn bộ
Tâm Hướng Phật!