Mỗi một câu trong bài Chú Đại Bi là tượng trưng với hình ảnh một vị Phật, Bồ Tát, Tôn Giả hoặc Thánh Thần do Đức Quan Âm Bồ Tát hóa thân.
1. Chú Đại Bi là gì?
Thần Chú Đại Bi được rút ra từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, do chính Đức Phật Thích Ca diễn nói trong một pháp hội trước mặt đông đủ các vị Bồ Tát, Thinh văn, Thánh chúng, Trời, Thần, Thiên, Long, các Đại thánh tăng như Ma-Ha Ca-Diếp, A-Nan… cùng câu hội, tại núi Bồ Đà Lạc Ca (Potalaka), một hải đảo ở về phía Nam xứ Ấn Độ, được coi như là nơi mà Đức Bồ Tát Quán Thế Âm thường trụ tích. Ta có thể tin chắc điều đó bởi vì Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn được mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A Nan “Như thế tôi nghe” cũng như xuyên qua nội dung hỏi đáp giữa ngài A Nan và Đức Thế Tôn đã được ghi lại ở trong kinh.
Trong pháp hội này, Bồ Tát Quán Thế Âm vì tâm đại bi đối với chúng sanh, muốn cho “chúng sanh được an vui, được trừ tất cả các bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được tăng trưởng công đức của pháp lành, được thành tựu tất cả các thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu” mà nói ra Thần Chú này.
Ngài cho biết lý do ra đời của Thần Chú như sau: Vào vô lượng ức kiếp về trước, Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, vì tâm thương tưởng đến chúng sanh nên đã nói ra thần chú Đại Bi và khuyến khích Bồ Tát Quán Thế Âm nên thọ trì tâm chú này để mang đến lợi ích an vui lớn cho chúng sanh trong đời vị lai. Bồ Tát Quán Thế Âm lúc bấy giờ mới ở ngôi sơ địa khi nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Vui mừng trước oai lực của thần chú, Ngài bèn phát đại nguyện: “Nếu trong đời vị lai, con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn mắt ngàn tay”.
Lập tức, Ngài thành tựu ý nguyện. Từ đó, hình ảnh của vị Bồ Tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt trở thành một biểu tượng cho khả năng siêu tuyệt của một vị Bồ Tát mang sứ mệnh vào đời cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sanh. Ngàn tay, ngàn mắt nói lên cái khả năng biến hóa tự tại, cái dụng tướng vô biên của thần lực Từ bi và Trí huệ tỏa khắp của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngàn mắt để có thể chiếu soi vào tất cả mọi cảnh giới khổ đau của nhân loại và ngàn tay để cứu vớt, nâng đỡ, như Đức Phật giải thích với Ngài A Nan ở trong kinh, “tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh”.
Kinh và Thần Chú Đại Bi sau đó đã được ngài Dà-Phạm-Đạt-Ma (Bhagavaddharma: có nghĩa là Tôn Pháp) một Thiền sư Ấn Độ, du hóa qua Trung Quốc vào niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường dịch và chuyển âm từ tiếng Phạn qua tiếng Trung Hoa và được Hoà Thượng Thích Thiền Tâm chuyển ngữ qua tiếng Việt. Với oai lực và linh nghiệm đã được chứng minh qua không gian và thời gian, Thần Chú Đại Bi đã được trân trọng trì tụng trong các khoá lễ, các nghi thức tụng niệm chính của các quốc gia theo truyền thống Phật giáo Đại thừa như: Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam,…
Cửa Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, một người học Phật dù cố gắng hành trì, tu tập trãi qua hằng hà sa số kiếp cũng không dễ gì có thể lãnh hội hết tất cả nội dung phong phú đó huống là chỉ một đời người. Cho nên, tùy theo căn cơ, duyên nghiệp, một khi đã phát tâm đi vào con đường giải thoát, hành giả hoặc nhờ phước duyên được chư Phật, chư Bồ Tát độ trì dẫn dắt, hoặc do minh sư chỉ bảo, mỗi người cần nên tự chọn cho mình một pháp môn để tu tập. Có rất nhiều pháp môn tu học phổ biến trong đại chúng hiện nay như Tịnh Độ, Mật Tông, Thiền Định…
Như người cùng tử, suốt một đời rong ruổi ngược xuôi, đến khi mang chiếc thân tàn trở về lại ngôi nhà cũ của Cha mình mới khám phá ra viên ngọc vô giá trong chiếc áo rách nát tả tơi theo năm tháng mà ngày xưa người cha vì lòng yêu thương đã khâu vào trước khi đứa con bỏ nhà đi hoang.
Thần chú Đại Bi, chính là viên ngọc vô giá đó và hôm nay, như người cùng tử năm xưa, chúng ta bất ngờ khám phá lại kho tàng không những sẽ làm giàu có, phong phú cho tâm hồn đang khô kiệt của chúng ta, mà còn là chiếc chìa khóa mở cho ta vào cánh cửa thênh thang của đạo quả giác ngộ, vô thượng bồ đề.
Ngài Tuyên Hóa dạy rằng: Người trì kinh, chú sẽ được ba nghiệp thanh tịnh, khi ba nghiệp lắng đọng thì trí huệ sinh (nhân định tức huệ) đồng Phật vãng Tây Phương.
- Thân ngồi ngay thẳng trước Phật là thân thanh tịnh.
- Miệng không nói dối, không đùa giỡn là khẩu nghiệp thanh tịnh.
- Ý không tán loạn, không phan duyên đó là ý nghiệp thanh tịnh.
“Mỗi niệm chân thành mỗi niệm thông
Tịch lặng cảm ứng tịch lặng trong
Cho đến non cao nước cùng tận
Rong chơi pháp giới khắp Tây Đông”
Niệm Kinh Chú mục đích nhiếp phục tam nghiệp hằng thanh tịnh để trừ được ba ác nghiệp thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp:
- Thân nghiệp gồm ba: (Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm)
- Khẩu nghiệp có bốn: (Không nói dối, không nói ác khẩu, không nói lưỡi hai chiều, không nói thêu dệt)
- Ý nghiệp có ba: Tham, sân, si.
Như vậy niệm Kinh, niệm Chú, niệm Phật cũng đều mục đích như nhau để tam nghiệp hằng thanh tịnh. Khi tâm mình thanh tịnh tức tâm bình, tâm bình tạo ra thế giới bình “tướng tự tâm sanh,” mây tan thì trăng tự nhiên hiển bày tỏa sáng. Khi chúng ta niệm chú một cách nhất tâm thì sẽ đoạn trừ được phiền não.
Kinh chú của Phật, tất cả mọi người có thể trì, nhưng muốn được lợi lạc trong khi tụng Kinh trì Chú người Phật tử cố gắng giữ tam nghiệp thanh, giữ giới dứt các điều ác làm các việc lành mới được công đức tốt đẹp.
Niệm Chú Đại Bi là mình luôn luôn nhớ cái tâm đại từ, đại bi của mình là niệm (Phật tính) trong tứ oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi, đều trong chánh niệm đều nghĩ đến Phật, chúng ta không tạo nghiệp bất thiện như không sát sinh giết người hại vật, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không tham, không sân, không si… thì chắc chắn trong cuộc sống của chúng luôn luôn an lạc, không sợ hãi, không gặp chướng ngại (vô ngại).
2. Những lợi ích khi trì tụng Chú Đại Bi
Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, do ngài Già Phạm Đạt Ma dịch (thời Đường), toàn bài chú này có 84 câu, người trì tụng thần chú Đại Bi sẽ được 15 điều lành, không bị 15 thứ hoạnh tử bức hại.
Được 15 điều lành
1. Sinh ra thường được gặp vua hiền, 2. Thường sinh vào nước an ổn, 3. Thường gặp vận may, 4. Thường gặp được bạn tốt, 5. Sáu căn đầy đủ, 6. Tâm đạo thuần thục, 7. Không phạm giới cấm, 8. Bà con hòa thuận thương yêu, 9. Của cải thức ăn thường được sung túc, 10. Thường được người khác cung kính, giúp đỡ, 11. Có của báu không bị cướp đoạt, 12. Cầu gì đều được toại ý, 13. Long, Thiên, thiện thần thường theo hộ vệ, 14. Được gặp Phật nghe pháp, 15. Nghe Chánh pháp ngộ được nghĩa thâm sâu.
Không bị 15 thứ hoạnh tử
1. Chết vì đói khát khốn khổ, 2. Chết vì bị gông cùm, giam cầm đánh đập, 3. Chết vì oan gia báo thù, 4. Chết vì chiến trận, 5. Chết vì bị ác thú hổ, lang sói làm hại, 6.Chết vì rắn độc, bò cạp, 7. Chết trôi, chết cháy, 8. Chết vì bị thuốc độc, 9. Chết vì trùng độc làm hại, 10. Chết vì điên loạn mất trí, 11. Chết vì té từ cây cao hoặc rớt xuống vực thẳm, 12. Chết vì người ác trù ếm, 13. Chết vì tà thần, ác quỷ làm hại, 14. Chết vì bệnh nặng bức bách, 15. Chết vì tự tử.
Ngoài ra, theo kinh Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La Ni Thần Chú (quyển thượng), trì tụng chú này 108 biến, tất cả phiền não tội chướng đều được tiêu trừ, thân khẩu ý thanh tịnh. Thần chú Đại Bi được các tông phái Phật giáo trì niệm rất phổ biến và thịnh hành.
Tuy nhiên, thần chú này được các nhà Phật học dịch khác nhau về tên kinh cũng như chương cú. Đơn cử như bản dịch chú Đại Bi của ngài Bồ Đề Lưu Chi có 94 câu, bản dịch của ngài Kim Cương Trí có 113 câu, bản dịch của ngài Bất Không có 82 câu…
Muốn trì chú này thì phải phát Bồ đề tâm, kính giữ trai giới, tâm luôn bình đẳng với mọi loài và phải trì tụng liên tục.
3. Nội dung Chú Đại Bi
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát ( 3 lần )
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a lị da bà lô kiết đế thước bát ra da.
Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a lị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê lị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê lị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha.
4. Ý nghĩa những câu Chú Đại Bi
1. Nam Mô Hắt Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da: Bổn thân Quan-Âm Bồ-Tát hóa hiện tướng hành giả cầm chuỗi lễ tụng cầu Bồ-Tát cảm ứng.
2. Nam Mô A Rị Da: Quan-Âm hóa hiện tướng tay bưng Như-Ý Pháp-Luân. Hành giả y giáo phụng hành.
3. Bà Lô Yết Đế Thước Bát Ra Da: Quán-Âm hóa hiện tướng Quán-Tự-Tại trì bát. Hành giả quán tưởng khiến chúng sanh được trường thọ.
4. Bồ Đề Tát Đỏa Bà Da: Quan Âm hiện thân Bất Không Quyên Sách Bồ Tát tự giác giác tha, phổ độ chúng sanh.
5. Ma Ha Tát Đỏa Bà Da: Quan Âm hiện tướng tụng chú, theo pháp tu trì, được thiện giải thoát.
6. Ma Ha Ca Lô Ni Ca Da: Quan Âm hóa hiện tướng Mã-Minh Bồ Tát tự giác giác tha, tự đô tự tha.
7. Án: Quan Âm hóa hiện tướng các Thần Quỷ Vương chắp tay tụng chú. Chư Phật quán tưởng chữ Án thành chánh giác.
8. Tát Bàn Ra Phạt Duệ: Quan Âm hóa hiện tướng Tứ Đại Thiên Vương dùng lục độ hoá độ chúng ma.
9. Số Đát Na Đát Tỏa: Quan Âm hóa hiện tướng Bộ-Lạc Tứ Đại Thiên Vương khiến cải ác theo thiện.
10. Nam Mô Tất Cát Lật Đỏa Y Mông A Rị Da: Quan Âm hiện tướng Long Thọ Bồ Tát hộ trì người tu hành, hàng phục tất cả ma oán.
11. Bà Lô Kiết Đế: Quan Âm hiện tướng Phật Viên Mãn báo Thân Lô Xá Na rộng độ vô lượng chúng sanh.
12. Nam Mô Na Ra Cẩn Trì: Quan Âm hiện tướng Phật Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na gia hộ chúng sanh an lạc.
13. Hê Rị Ma Ha Bàn Đa Sa Mế: Quán Âm hiện tướng Dương Đầu Thần Vương hộ trì hành giả xa lìa loài ác thú.
14. Tát Bà A Tha Đậu Du Bằng: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Cam Lộ Vương tay cầm cành dương, tay cầm bình ngọc cam lộ độ chúng sanh.
15. A Thệ Dựng: Quán Âm hiện tướng Phi Đằng Dạ Xoa Thiên Vương tuần sát bốn phương khuyến thiện ngừng ác.
16. Tát Bà Tát Đa Na Ma Bà Tát Đa Na Ma Bà Già: Quán Âm hiện tướng Thần Vương Bà Già Bà Đế độ chúng sanh có duyên.
17. Ma Phạt Đạt Đậu: Quan Âm hiện tướng Quân Tra Lợi Bồ Tát mặt có ba con mắt cảm hóa ác nhơn hướng thiện.
18. Đát Điệt Tha: Quán Âm hiện tướng A La Hán thuyết pháp độ chúng sanh.
19. Án A Bà Lô Hê: Quan Âm hiện tướng Quan Âm Bồ Tát từ bi vô lượng cứu khổ ban vui.
20. Lô Ca Đế: Quan Âm hiện tướng Đại Phạm Thiên Vương ở trong mười phương thế giới độ thoát chúng sanh.
21. Ca Ra Đế: Quan Âm hiện tướng Đế Thần ở trong mười phương thế giới thường cứu chúng sanh.
22. Di Hê Rị: Quan Âm hóa hiện tướng Thiên Thần Ma Hê Đầu La thống lãnh thiên binh độ chúng sanh.
23. Ma Ha Bồ Đề Tát Đỏa: Quan Âm dùng tâm nguyện thanh tịnh, từ bi vô ngã cảm ứng độ người chân thật tu hành.
24. Tát Bà Tát Bà: Quan Âm hiện thân Bồ Tát Hương Tích điều phục năm phương chúng quỷ theo hầu cứu giúp chúng sanh.
25. Ma Ra Ma Ra: Quan Âm hiện Bạch Y Bồ Tát tay mặt cầm Như Ý, tay trái dắt đồng tử khiến chúng sanh được trường thọ.
26. Ma Hê Ma Hê Rị Đà Dựng: Quan Âm hiện tướng Phật A Di Đà khiến chúng sanh khi hết thân nầy đồng sanh Cực Lạc quốc.
27. Cu Lô Cu Lô Yết Mông: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Không Thân hàng phục vạn ức thiên binh, hóa độ vô lượng chúng sanh.
28. Độ Lô Độ Lô Phạt Xà Da Đế: Quan Âm hóa thân Bồ Tát Nghiêm Tuấn áp lãnh man binh Khổng Tước Vương hàng phục các ma oán.
29. Ma Ha Phạt Xà Da Đế: Quan Âm hóa hiện Đại Lực Thiên Tướng tay cầm Bảo Xử hộ trì chúng sanh, tinh tấn tu hành.
30. Đà La Đà La: Quan Âm hiện tướng trượng phu tu khổ hạnh khiến chúng sanh phá trừ ngã chấp pháp chấp.
31. Địa Rị Ni: Quan Âm hiện tướng Sư Tử Vương xét nghiệm người tụng chú khiến chúng sanh tiêu trừ tai họa.
32. Thất Phật Ra Da: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Thích Lịch tay cầm Kim Xử hàng phục các ma và quyến thuộc của chúng.
33. Giá Ra Giá Ra: Quan Âm hiện thân Bồ tát Tồi Toái tay cầm Kim Luân hóa độ oán ma điều phục tùng.
34. Mạ Mạ Phạt Ma Ra: Quan Âm hiện thân Đại Hàng Ma Kim Cang tay cầm Kim Luân hộ trì chúng sanh đắt đại cát tường.
35. Mục Đế Lệ: Quán Âm hiện tướng chư Phật, Bồ Tát chắp tay lắng lòng nghe tụng thần chú, hành giả phụng trì chứng đắt Phật quả.
36. Y Hê Y Hê: Quan Âm hiện thân Ma Hê Thủ La Thiên Vương cảm triệu nhơn thiên thuận tùng.
37. Thất Na Thất Na: Quán Âm hiện thân Ca Na Ma Tướng Thiên Vương, hóa lợi chư Thiên, không gây tai hại nhân gian.
38. A Ra Sâm Phật Ra Xá Lợi: Quan Âm hiện tướng tay cầm khiên, tay cầm cung tên kính tụng thần chú đắc pháp tự tại.
39. Phạt Xa Phạt Xâm: Quan Âm hiện thân Kim Khôi Đại Tướng cầm linh thuận thời giáo hóa độ chúng sanh.
40. Phật Ra Xá Da: Quan Âm hiện tướng Phật A Di Đà, chúng sanh tưởng niệm thì hiện tiền tương lai sẽ thấy Phật.
41. Hô Lô Hô Lô Ma Ra: Quán Âm Hiện Tướng Bát Bộ Thần Vương chắp tay niệm từ bi hàng phục chúng ma.
42. Hô Lô Hô Lô Hê Rị: Quan Âm hiện tướng Tứ Tý Tôn Thiên tay bưng Nhật Nguyệt chiếu sáng hóa độ nhơn thiên.
43. Ta Ra Ta Ra: Quan Âm hóa độ Phổ Đà Sơn hiển linh bất khả tư nghì, có ý nghĩa Ta-Bà khổ như núi non hiểm trở.
44. Tất Rị Tất Rị: Quán Âm hiện tướng mạo từ bi tay cầm cành dương, tay cầm tịnh bình rưới nước cam lồ cứu khổ độ sanh.
45. Tô Rô Tô Rô: Quán Âm hóa tướng lá cây rụng, chúng sanh nghe tiếng được bốn lợi ích: quán đảnh, mát thân, tâm vui, đầy đủ.
46. Bồ Đề Dạ Bồ Đề Dạ: Quan Âm hiện tướng diện mạo từ bi thân cận trẻ con giáo hóa lợi ích chúng sanh.
47. Bồ Đà Dạ Bồ Đà Dạ: Quan Âm hiện tướng A Nan tôn giả tay cầm bình bát hóa độ chúng sanh.
48. Di Đế Rị Dạ: Quan Âm hiện tướng Di Lặc Bồ Tát chỉ dạy chúng sanh tu hạnh đại bi, được chơn giác ngộ an lạc.
49. Na Ra Cẩn Trì: Quan Âm hiện tướng Địa Tạng Bồ Tát khai ngộ chúng sanh tỉnh giác mê chấp, được thoát khổ ác đạo.
50. Địa Rị Sắc Ni Na: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Bảo Tràng tay kiết ấn, tay cầm Kim Xoa làm lợi ích chúng sanh.
51. Ba Dạ Ma Na: Quan Âm hiện tướng Bảo Kim Quang Tràng Bồ Tát cầm Bạt Chiết La Xử lợi ích độ sanh.
52. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng ba đầu Viên-Tịch Thắng-Nghĩa lợi ích độ sanh.
53. Tất Đà Dạ: Quan Âm hiện tướng tôn giả Xá Lợi Phất tay kiết ấn Liêm Thủ thông đạt tất cả pháp.
54. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Hằng Hà Sa đứng trên đầu rồng, dùng tâm cát tường hóa độ chúng sanh.
55. Ma Ha Tất Đà Dạ: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Phóng-Quang tay cầm tràng phan báu lợi ích độ sanh.
56. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng tôn giả Mục Kiền Liên tay cầm tích trượng, bình bát dứt trừ tai ương, cứu độ chúng sanh.
57. Tất Đà Du Nghệ: Quan Âm hiện Tây Phương Cực Lạc, tất cả chư Thiên, Bồ Tát vân tập thính thọ pháp hỷ, hóa độ thập phương nhơn thiên.
58. Thất Bàn Ra Dạ: Quan Âm hiện tướng Thiên Nữ Tự Tại Viên Mãn
59. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng tôn giả A-Xà-Na hoan hỷ bưng cao bình bát tăng trưởng tâm lợi ích độ sanh.
60. Na Ra Cẩn Trì: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Sơn Hải Huệ tay cầm kiếm vàng hóa độ thánh-giả Tiểu-thừa.
61. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng tôn giả Chiên Đà La quảy nón lá vô trụ thắng nghĩa độ hóa chúng sanh.
62. Ma Ra Na Ra: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Bảo Ấn Vương tay cầm búa vàng Như Ý kiểm nghiệm tâm hạnh chúng sanh.
63. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng tôn giả Câu Hy La mang giầy cỏ đạp trên sóng nước phát sanh tiếng hải triều cảnh giác tâm chúng sanh.
64. Tất Ra Tăng A Mục Khê Da: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Dược Vương tay cầm dược thảo trừ bịnh khổ chúng sanh.
65. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng Viên Mãn Bồ Tát thân mặc y đỏ chấp tay tâm viên mãn an lạc chúng sanh.
66. Ta Bà Ma Ha A Tất Đà Dạ: Quan Âm hiện tướng Dược Thượng Bồ Tát tay cầm bình ngọc giải trừ tật khổ chúng sanh.
67. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng tôn giả Xá Lợi Phất tay cầm chơn kinh cứu cánh thắng nghĩa hóa đạo chúng sanh quy Tịnh Độ.
68. Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ: Quan Âm hiện tướng Thần Hổ gầm, tay cầm búa kiên định tâm hàng phục ma oán.
69. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng chư Thiên Ma Vương tay cầm Xà Thương hóa đạo chúng sanh giải trừ tâm oán hận.
70. Ba Đà Ma Yết Tất Đà Dạ: Quan Âm hiện tướng Linh Hương Thiên Bồ Tát bưng lư Như Ý hộ trì chúng sanh.
71. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng Tán Hoa Thiên Bồ Tát tay cầm bảo liên ngàn cánh thành tựu chúng sanh lợi ích an lạc.
72. Na Ra Cẩn Trì Bàn Già Ra Dạ: Quan Âm hiện tướng Tôn Giả Phú Lâu Na tay bưng bình bát cứu độ chúng sanh lìa tai nạn.
73. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Đà La Ni Từ tay bưng trái tươi bố thí độ sanh chân thật tu hành rõ pháp tánh không.
74. Ma Bà Lợi Thắng Yết Ra Dạ: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Tam Ma Thiền Na kiết già trên bánh xe, tay bưng đèn ngọc sáng khắp pháp giới.
75. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng tôn giả Đại Ca Diếp tay trái cầm chuỗi, tay mặt cầm thiền trượng chỉ dẫn chúng sanh tu hành.
76. Nam Mô Hắc Ra Đa Ra Dạ Da: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Hư Không Tạng cầm hoa ngồi trên đá khiến cho chúng sanh kiên định tín tâm dõng mãnh tinh tấn.
77. Nam Mô A Rị Da: Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Phổ Hiền kiết già thiền tọa trên Hương Tượng khiến chúng sanh viên mãn công hạnh.
78. Bà Lô Kiết Đế: Quan Âm hóa thân Bồ Tát Văn Thù ngồi trên sư tử tay chỉ hư không khến chúng sanh khai ngộ.
79. Thước Bàn Ra Dạ: Quan Âm hiện tướng hoa sen ngàn cánh giải trừ chúng sanh ái sắc trần hư vọng, thấy tự tánh không.
80. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng buông thõng hai tay giải trừ nhĩ căn phân biệt thanh trần hư vọng, nghe tự tánh không.
81. Án Tất Điện Đô: Quan Âm hiện tướng mở hai bàn tay đoạn tỳ căn ái nhiễm hương trần, tự giác tánh không.
82. Mạn Đà Ra: Quan Âm hiện tay Đâu La Miên đoạn trừ căn ái nhiễm vị trần hư vọng, tự giác tánh không.
83. Bạt Đà Dạ: Quan Âm hiện tướng tay bưng bát hương giải trừ tham ái chạm xúc, khiến chúng sanh đoạn thân căn xúc trần hư vọng, tự giác tánh không.
84. Ta Bà Ha: Quan Âm hiện tướng tay cầm tràng phan giải trừ phân biệt các pháp, khiến chúng sanh đoạn ý căn chấp pháp trần hư vọng, biết tự tánh không.
5. Sự linh ứng nhiệm màu của thần chú Đại Bi
Trì chú khỏi bệnh kinh phong
Sự linh nghiệm của thần chú Đại bi đã được nhiều người chứng thực và cũng được chia sẻ. Câu chuyện mà tôi kể sau đây là do nghệ sĩ Diệu Hiền kể trên YouTube trong chương trình “Giữ ngọc gìn vàng với Hồng Loan”.
Nghệ sĩ Diệu Hiền kể rằng, cô có một người cháu gái bị bịnh kinh phong từ nhỏ, hiện cũng đang ở chung với cô. Người cháu gái ấy tính tình rất cộc cằn, ai rớ tới là chửi “tàn gia tru lục”, không ai dám làm gì cô ấy hết. Một hôm Diệu Hiền mới bảo người cháu ấy rằng: “Cô đi chùa thấy người ta đọc kinh cũng vui lắm. Nếu con chịu học thuộc thì cô cho tiền uống cà-phê”. Người cháu gái có cái tật ghiền cà-phê nên nghe vậy đồng ý liền. Cứ một bài chú ngắn thì cô Diệu Hiền trả cho hai chục ngàn đồng, bài dài hơn thì ba chục, dài hơn nữa thì bốn chục. Một thời gian sau, cô Diệu Hiền bảo người cháu ấy học chú Đại bi, nói rằng nếu thuộc được thì trả cho một trăm ngàn đồng.
Thế nhưng lúc người cháu ấy vừa cầm quyển kinh lên đọc được vài câu thì cơn động kinh liền đến, giựt cô té từ trên ghế xuống đất. Khi cơn động kinh qua, người cháu ấy liền tức giận, cầm quyển kinh ném vào mặt cô Diệu Hiền mà mắng rằng: “Hồi đó chưa đi chùa thì hổng có nói láo. Bây giờ đi chùa bày đặt bắt chước ai nói láo rồi về gạt gẫm con cháu nữa là sao? Người ta lúc trước bị giựt cũng ít ít thôi. Bảo là đọc cái này sẽ hết bị giựt. Vậy mà mới đọc có mấy câu mà giựt một cái muốn chết luôn hà. Dẹp, từ rày sắp tới đừng có nói với tui ba cái vụ kinh này nữa nhe. Dẹp nhe! Tui yêu cầu đừng nói với tui vụ này nữa à”.
Thế nhưng chiều hôm đó, sau giấc ngủ trưa, người cháu gái ấy đến bên cô Diệu Hiền hỏi rằng: “Bây giờ tui nói cái này nhưng yêu cầu đừng có nói dối, nói thiệt tui nghe đi. Là cái người mà đàn ông không phải đàn ông, đàn bà không phải đàn bà, mà tóc dài đó là ai vậy?”. Cô Diệu Hiền nghe vậy mới hỏi người cháu đã gặp người đó ở đâu. Người cháu nói là cô ngủ thì thấy người đó đến và gõ gõ vào đầu cô ta. Cô Diệu Hiền mới giải thích rằng đó là Đại sĩ Quán Thế Âm đến để kêu con cố gắng học kinh đó. Người cháu nghe vậy không trả lời nhưng âm thầm học thuộc chú Đại bi và trì tụng mỗi ngày.
Thế là điều kỳ diệu đã xảy ra. Trước đây người cháu bị giựt một ngày đến sáu lần. Từ khi trì chú Đại bi thì giảm xuống còn năm lần một ngày. Từ đó về sau, cứ sau một tuần là giảm xuống một lần cho đến chỉ còn một lần một ngày. Rồi một tháng mới giựt một lần, rồi ba tháng mới giựt một lần, và cuối cùng thì hoàn toàn không còn bị giựt nữa.
Một hôm người cháu gái ấy đến bên cô Diệu Hiền, ôm chân cô nói: “Cô Hiền, con xin lỗi cô. Kể từ nay trở đi để con tự động học kinh. Cô Hiền khỏi mướn con nữa. Con xin lỗi cô Hiền, con không dám nói hỗn với cô nữa, cô đừng giận con nhe!”. Và cũng từ đó người cháu đổi tính hoàn toàn, không còn cộc cằn nữa mà trở nên hiền khô, ngoài ra còn chăm chỉ làm việc nhà như lau nhà, rửa chén một cách vui vẻ. Đặc biệt hơn nữa là cô bắt đầu ăn chay trường và đi chùa. Cô đến chùa gần đó tụng kinh mỗi chiều. Còn khi ở nhà thì cô đi kinh hành và niệm Phật. Cô còn thuộc cả năm đệ chú Lăng nghiêm nữa. Chú Đại bi thật là vi diệu!
Đọc thêm: Sự linh ứng nhiệm màu của thần chú Đại Bi
Nguồn: Phatgiao.org.vn!