Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu thuộc về thế giới quan của Đạo Phật. Đại lược thì trong một Tiểu thế giới gồm: Một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu.
Như thế, Núi Tu Di là trung tâm của Tiểu thế giới, do bốn chất báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành, được an trụ nơi Kim luân. Núi có hình thể trên dưới rộng ra, khoảng giữa eo lại. Bề cao từ mặt nước trở lên 80.000 do-tuần, chu vi của hai đầu trên dưới đều 80.000 do tuần. Xung quanh núi này được bao bọc xen kẽ bởi tám lớp núi và biển dạng vòng tròn, xen kẽ nhau. Tứ Đại Bộ Châu nằm ở trên lớp biển ngoài cùng, gọi là Đại Hàm Thủy Hải. Đây là chỗ chư thiên, chư thần và Tiên nhân ở.
- Cõi Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền Thiên.
- Tam giới là gì.
- Cõi Ta Bà là gì.
- Tứ Đại Thiên Vương là ai.
- 33 Tầng trời trong Phật giáo.
- Thiên Ma là loại ma gì.
- Cận tử nghiệp vô cùng đáng sợ.
- 10 điều quan trọng Phật tử tại gia cần biết.
*
Từ mặt nước lên đến giữa núi Tu Di có bốn tầng cấp, mỗi tầng cấp cách nhau 10.000 do-tuần. Tầng cấp thứ nhất bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 16.000 do-tuần. Đây là chỗ ở của thần Kiên Thủ. Tầng cấp thứ hai bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 8.000 do-tuần. Đây là chỗ ở của thần Trì Hoa Man. Tầng cấp thứ ba bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 4.000 do-tuần. Đây là chỗ ở của thần Thường Phóng Dật. Ba xứ sở nầy là nơi ở các thần dưới quyền thống lãnh của Tứ Thiên Vương. Tầng cấp thứ tư bao vòng quanh núi, de rộng ra ngoài 2.000 do-tuần. Đây là trụ xứ của bốn vị Thiên vương, gọi là Tứ Thiên Vương
Trên đỉnh núi Tu Di là xứ sở của trời Đao Lợi, tức Tam Thập Tam Thiên, nơi có vị thiên chủ tên là Thích Ðề Hoàn Nhơn, lại gọi là Ðế Thích, người đời gọi là Ngọc Hoàng Thượng đế. Nơi đây địa thế rộng rãi tốt đẹp. Ở bốn góc trên đảnh núi Tu Di có bốn tòa núi nhỏ, bề cao và rộng đều 500 do-tuần, có thần Dược Xoa tên là Kim Cương Thủ trụ nơi đây để tuần thị và hộ vệ chư thiên. tức là chỗ của ba mươi ba nước trời ở, rốt trung ương tức Ðao Lợi thiên, vị thiên chủ tên là Thích Ðề Hoàn Nhân, lại gọi là Ðế Thích, người đời gọi là Ngọc Hoàng Thượng đế.
Đại Lược về Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu
Cõi Ta Bà gồm một Tam Thiên Đại Thiên Thế giới. Lập trường của A Tỳ Đạt Ma, Phật giáo nhìn ba cõi trên phương diện vật lý. Vì thế, trong vấn đề hiện tượng luận của thế giới, học thuyết nầy không đề cập đến cõi Vô sắc, bởi cõi ấy hoàn toàn thoát ly mọi quan hệ về vật chất. Được nói đến trong Thế Giới Hiện Tượng Luận, chỉ có Dục giới và Sắc giới.
Trong một Tiểu thế giới, núi Tu Di là trung tâm điểm. Về trực độ, trên từ trời Tha Hóa Tự Tại cho đến phong luân. Về hoành độ thì có cõi Lục Dục, chín lớp núi, tám lớp biển, mặt trời mặt trăng, bốn đại châu và địa ngục. Quả đất của chúng ta đang ở chỉ là một châu trong bốn châu của Tiểu thế giới mà thôi.
Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu: Tam Luân Bao Bọc
Tiểu-thế-giới được ba lớp bao bọc. Lớp nhất ở trong gọi là Kim luân (lớp cứng chắc), bề thâm hậu 3 lạc-xoa 20000 du-thiện-na, bề rộng 12 lạc-xoa 3.450 du-thiện-na. (Mỗi lạc-xoa là một ức, số ức thời xưa có bốn bậc: 100.000, 1.000.000, 10.000.000, 100.000.000 du-thiện-na, tức do-tuần, do-tuần cũng có ba bậc: 16 dặm, 30 dặm, 60 dặm).
Ngoài Kim luân, có lớp thứ hai gọi là Thủy luân, bề thâm hậu 8 lạc-xoa du-thiện-na, bề rộng cũng 12 lạc-xoa 3.450 du-thiện-na. (Thủy luân khi còn là hơi nước, chưa bị gió thổi đọng lại, bề thâm hậu đến 11 lạc-xoa 20.000 du-thiện-na). Do nghiệp lực của chúng sanh, nước không tan rã như thức ăn, khi chưa tiêu không sa vào thục tạng.
Ngoài Thủy luân, có lớp thứ ba là Phong luân, bề thâm hậu 16 lạc-xoa du-thiện-na, bề rộng có vô số du-thiện-na.
Ngoài Phong luân lại có hư không rộng rãi vô biên tế.
Kim luân an trụ nơi Thủy luân. Thủy luân an trụ nơi Phong luân. Phong luân an trụ nơi hư không.
(Trích luận Câu Xá, theo các Kinh luận khác như Trường A Hàm Kinh, Khởi Thế Kinh, Khởi Thế Nhân Bản Kinh, Lâu Thán Kinh, Lập Thế A Tỳ Đàm Luận, thì có chỗ lại thêm vào Địa luân, về bề thâm hậu cùng bề rộng của mỗi luân có đôi chút sai khác).
Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu: Chín Núi Tám Biển
Một Tiểu thế giới có một núi Tu Di làm trung tâm điểm; đó là lớp núi thứ nhất. Núi Tu Di an trụ nơi Kim luân, hình thể trên dưới rộng ra, khoảng giữa eo lại, bề cao từ mặt nước trở lên 80.000 do-tuần (có chỗ nói 84.000 do-tuần).
Ngoài núi Tu Di có một vòng biển nước thơm gọi là Hương thủy hải, chiều ngang cũng rộng 80000 do-tuần. Kế biển nầy đến lớp núi thứ hai là Trì Song Sơn, bề cao từ mặt nước trở lên 40.000 do-tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang rộng 40.000 do-tuần.
Kế biển nầy đến lớp núi thứ ba là Trì Trục Sơn bề cao từ mặt nước trở lên 40.000 do-tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 20.000 do-tuần.
Kế biển nầy đến lớp núi thứ tư là Chiêm Mộc Sơn, bề cao từ mặt nước trở lên 10.000 do-tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 10.000 do-tuần.
Kế biển nầy đến lớp núi thứ năm là Thiện Kiến Sơn, bề cao từ mặt nước trở lên 5.000 do-tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng 5.000 do-tuần.
Kế biển nầy đến lớp núi thứ sáu là Mã Nhĩ Sơn, bề cao từ mặt nước trở lên 2.500 do-tuần, ngoài có một vòng Hương thủy hải bao bọc, chiều ngang cũng rộng….
*
…Như thế có tất cả chín lớp núi, tám lớp biển. Núi Tu Di do bốn chất báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Bảy lớp núi kế gọi là Thất Kim Sơn, đều do chất vàng tạo thành. Núi Thiết Vi do chất sắt tạo thành. Tu Di Sơn là chỗ chư thiên, chư thần ở. Thất Kim Sơn là chỗ chư thiên thần và ngũ thông tiên nhân ở. Thiết Vi Sơn là chỗ của chúng Ngạ quỷ, Địa ngục ở.
Chín lớp núi đều an trụ trên Kim luân và chiều sâu từ mặt nước trở xuống đều 80000 do-tuần, chu vi của mỗi núi bằng bề cao từ mặt nước trở lên. Tám lớp biển đều sâu 80000 do-tuần. Bảy biển trước gọi là nội hải, dẫy đầy nước Bát công đức ngọt thơm; một biển sau gọi là ngoại hải, thuộc về vùng nước mặn.
Thế nào là Bát công đức thủy của Hương hải? Ấy là thứ nước có tám đặc tánh: Ngon ngọt, mát mẻ, trong sạch, nhu nhuyễn, nhẹ nhàng, trơn nhuần, thơm tho không mùi hôi, uống vào trừ đói khát và bịnh hoạn, uống vào có thể trưởng dưỡng các căn (theo các Kinh luận khác, chiều rộng của mỗi biển, và chiều sâu của mỗi núi từ mặt biển trở xuống có hơi sai biệt).
Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu
Bốn đại-bộ-châu vị trí ở vào vùng biển thứ tám là Đại Hàm Thủy hải.
Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu: 1. Nam Thiệm Bộ Châu
Phía nam núi Tu Di là phương vị của Nam Thiệm Bộ Châu. Châu nầy cũng có tên là Diêm Phù Đề, vì ở phương bắc của bản châu có thứ cây Diêm phù, dưới cây ấy có chất vàng rất quý tên là Diêm phù na đàn. Hình thế châu Nam Thiệm Bộ phương bắc rộng, phương nam hẹp, chu vi độ 7000 du-thiện-na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu. Đây là Châu mà chúng ta đang ở.
Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu: 2. Đông Thắng Thần Châu
Phía đông núi Tu Di là Đông Thắng Thần Châu. Châu nầy tiếng Phạm gọi là Tỳ Đề Ha hay Phất Bà Đề. Châu Thắng Thần hình bán nguyệt, phương đông hẹp, phương tây rộng, chu vi độ 9000 du-thiện-na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.
Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu: 3. Tây Ngưu Hóa Châu
Phía tây núi Tu Di là châu Cù Đà Ni, cũng gọi là Ngưu Hóa Châu. Nhân dân ở châu nầy dùng trâu, bò, ngựa, châu báu, để mua bán, đổi chác vật dụng cho nhau, nên do đó mà được mệnh danh. Lập Thế Luận thì cho rằng ở châu nầy có một quả núi rất to, hình giống như con trâu, vì thế nên được gọi là Cù Đà Ni. Tây Ngưu Hóa Châu địa hình như mặt trăng tròn, chu vi độ 8000 du-thiện-na, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.
Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu: 4. Bắc Câu Lư Châu
Phía bắc núi Tu Di là Bắc Câu Lư Châu, cũng gọi là Uất Đan Việt. Cảnh sắc và nhơn vật ở châu nầy đều hơn ba châu kia. Về y báo thì tại bản châu non sông tú lệ; cây cỏ thanh u, nhiều hồ ao trong mát, hoa quả đủ màu sắc tốt tươi. Các loài chim như bạch nga, hồng, nhạn, oan ương kêu hót giao hòa khắp nơi. Khí hậu quanh năm mát mẻ trong lành; không có gai góc cùng loài ruồi, muỗi, độc trùng; các thứ gạo thơm tự nhiên sanh ra, đầy đủ vị ngon.
Về chánh-báo thì loài người ở đây toàn là giống da trắng, khỏe mạnh sống lâu, thân hình cao lớn xinh đẹp. Khi muốn ăn, họ lấy gạo thơm để trong bảo khí, phía dưới đặt hạt châu Diệm Quang Ma Ni; trong giây phút ánh sáng hạt châu tắt là gạo đã chín. Lúc muốn cần dùng y phục, vật dụng, họ đến cây Hương thọ hái trái chín; trái nầy tự nứt ra, trong ấy có đủ y phục tốt đẹp, hoặc đồ dùng, hoặc thức ăn.
Muốn nghỉ mát, họ đến dưới cây Khúc-cung; cây nầy cành lá dày nhặt xanh tươi, nắng mưa không lọt, có thể nằm ngủ ở dưới mà không lo ngại. Muốn dạo chơi, họ xuống bảo thuyền bơi nhẹ theo sông hồ; đề huề đàn sáo, khúc ca tiếng nhạc hòa điệu lẫn nhau, âm thanh du dương trong trẻo nhiệm mầu. Khi bầy đoàn tắm gội, họ xếp y phục để trên mé hồ; ai lên trước cứ gặp cái nào mặc ngay cái ấy, không cần tìm chọn đồ của mình; mặc xong cũng hóa vừa vặn xinh đẹp như y phục cũ.
*
Người ở Bắc Câu Lư Châu hình mạo đều đồng, không có tật bịnh; tóc chỉ rủ xuống tới chân mày, màu xanh biếc. Lúc nghĩ đến sự dục lạc, người nam chăm chú nhìn người nữ; nếu bên nữ đồng ý, thì đem nhau đến vườn cây. Như nữ nhơn với nam nhơn vốn là người thân thuộc thì cây Khúc-cung không phủ xuống, mỗi bên tự tản đi. Nếu không phải người trong thân, tự nhiên cây phủ xuống chụp úp kín đáo, hai bên tùy ý ân ái từ một ngày đến bảy ngày rồi phân tán.
Người nữ mang thai độ bảy tám ngày liền sanh. Lúc sanh ra, dù là trai hay gái, cũng đem để ở ngã tư đường; mỗi người đi qua đều đến đưa ngón tay vào miệng đứa bé, từ trong ngón tay tuôn ra chất sữa ngọt, hài nhi được no đủ. Như thế đến ngày thứ bảy, đứa bé cao lớn như thường nhơn; con trai thì đi theo đoàn người nam, con gái đi theo đoàn người nữ.
Đất ở châu nầy nhu nhuyễn, dân chúng khi đi, chân đạp đến đâu đất nơi ấy tự êm dịu bằng phẳng. Lúc người đại tiểu tiện, đất tự nứt ra, khi xong rồi, cũng tự khép lại. Nhơn dân ở châu Uất Đan Việt thọ lượng đều đúng 1.000 tuổi, nên khi chết không ai khóc lóc tang điếu. Kẻ chết được đồng bọn gói gắm kỹ, đem để nơi đường vắng. Liền đó có loại chim to lớn tên là Ưu Uất Thiền Già gắp thây đem đi xa bỏ nơi khác. Chúng sanh ở nơi đây sở dĩ được phước báo như thế, là do vì đời trước có tu Thập thiện nghiệp.
*
Châu Bắc Câu Lư hình vuông, chu vi độ 10.000 do-tuần, xung quanh có hai trung châu và nhiều tiểu châu.
Các Kinh luận đều nói, hình dáng của châu nào ra sao, thì khuôn mặt của dân chúng châu đó cũng như thế ấy. Như người ở Nam Thiệm Bộ Châu, khuôn mặt phần nhiều trên lớn dưới nhỏ. Người ở Đông Thắng Thần Châu khuôn mặt tương tợ hình bán nguyệt. Người ở Tây Ngưu Hóa Châu khuôn mặt như trăng tròn. Người ở Bắc Câu Lư Châu khuôn mặt hơi vuông.
( Núi Tu Di và Tứ Đại Bộ Châu – Theo Phật Học Tinh Yếu)
Tuệ Tâm 2021.