Yêu quái là gì? Yêu quái phần lớn được sinh ra nhờ một loại tinh khí sinh ra khi có nhật thực nguyệt thực; tinh khí ấy được hấp thụ bởi các loại như: vàng ngọc, nấm lạ, kỳ lân, phụng hoàng, rùa, hạc… nên biến hóa mà thành. Yêu quái cũng là quỷ mà quỷ cũng chính là yêu quái, chúng có quyền năng và linh thông biến hóa. Đây là do túc nghiệp lẫn tạp của chúng sinh, nhân cảm với duyên của báo ứng hiện tại mà phát sinh ra. Theo Thiên Bảo Ký: “Yêu quái là tinh hoa khí chất dựa vào vật khác mà sinh ra. Khí chất hỗn loạn từ trong vật biến hóa ra bên ngoài, hình hài thần thái khí chất sử dụng từ ngoài vào trong”.
Theo Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy: Yêu quái “là những giống sơn tinh, hải tinh, phong tinh, hà tinh, thổ tinh, và những loài tinh mị của tất cả cỏ cây đã sống nhiều kiếp, có sức rất mạnh trong trời đất. Hoặc là loại long mỵ (yêu quái rồng); hoặc là các vị tiên tuổi thọ đã hết, tái sanh làm yêu quái. Hoặc là những vị Tiên quả báo đã hết, đáng ra phải chết, nhưng thân thể không bị hủy hoại, nên loài yêu quái khác đến gá vào. Các loài nầy sống lâu thành quỷ, quấy nhiễu người tu và nhân gian…”
- Cách giúp đỡ những người bị ma nhập.
- Hành dịch bệnh quỷ vương Lệ quỷ .
- Thiên Ma là loại ma gì.
- Quỷ hấp tinh là gì.
- Cách cúng về nhà mới.
- 10 Chuyện tâm linh có thật.
- Bị vong nhập, chuyện giờ Thầy mới kể.
Yêu quái là gì
Hòa Thượng Tuyên Hóa dạy: “Quỷ càng già, thần thông càng lớn. Loài quỷ còn trẻ thì sức chưa được mạnh và thần lực chưa được lớn. Loài quỷ già sẽ có năng lực thần thông bất khả tư nghì, do vậy nên nó mới được gọi là quỷ. Quỷ thì có nhiều thần lực hơn ma. Trung Hoa có từ “ma quỷ” vì ma có khi biến thành quỷ.
Các ông đã nghe về chuyện “Như ý ma nữ” chưa? Đó là một con quỷ cái sống thời nhà Chu. Vì nó không tuân theo quy củ, nên bị trời đánh bằng sấm sét. Tuy nhiên, sấm sét không tiêu diệt được nó hẳn. Nó tụ tinh khí, thu thần lực lại, nỗ lực tu luyện, lại thành một loài quỷ thường đi khắp nơi, thích cướp lấy sinh mạng loài người. Chỉ vì nó muốn gia tăng thế lực của nó và đám quyến thuộc.
Mỗi lần nó giết một sinh mạng, loài quỷ khác liền đến chúc mừng: “Ngài thật là phi thường!” Cũng tương tự như các vị sĩ quan chúc mừng một sĩ quan vừa mới được thăng chức vậy. Thế lực của quỷ tăng dần theo mạng người nó giết, đến cả loài ma cũng phải đến thần phục nó. Sau đó, khi “Như ý ma nữ” gặp tôi, nó xin quy y Tam bảo. Đó là chuyện một con quỷ cái đã quy y Phật.
Luận về Yêu quái
“…Mọi sự việc trong pháp giới này đều rất vi diệu không thể nghĩ bàn. Trong kinh chỉ mô tả một phần rất nhỏ. Nếu chúng ta bàn đến chi tiết, thì mỗi “ấm” (Ngũ Ấm Ma) như vậy phải có vô số tướng trạng ma quái khác nhau. Kinh chỉ nêu lên một dạng của ma sự để cung cấp cho người tu một ý niệm tổng quát, để họ có thể thoát khỏi tâm niệm mong cầu, tham ái. Nếu các ông không có tâm niệm tham dục, ông không cần phải sợ bất kỳ loại ma quỷ nào cả.
Nếu ông thoát khỏi tham dục, chẳng có ma nào quấy nhiễu được ông cả. Ma quỷ chỉ đến khi nó thấy các ông vừa mở cửa ra rước nó vào. Nếu các ông luôn luôn đóng cửa kín mít, nó chẳng thể nào đến được. Ma quỷ sinh ở cõi trời vì nó đã tu phước rất nhiều. Trong kinh thường nói về thiên ma, nhưng các ông không nên nghĩ rằng nó chỉ có ở trên trời. Nó có thể đến cõi trời, nhưng nó không thường xuyên ở đó. Ma quỷ trong cõi người có được thần thông cũng có thể được xem như thiên ma.
*
Nếu thiên ma cần chúng đến cõi trời để cổ vũ cho nó trong khi đánh nhau hoặc tăng cường thế lực cho nó, thì ma quỷ ở cõi người đến ngay lập tức. Cho dù nó sinh ở cõi trời, nhưng vẫn còn tham dục, vẫn còn có những cơn thịnh nộ dữ dội và tính khí rất cang cường, bướng bỉnh. Chỉ vì tính hiếu chiến như thế nên nó trở thành quỷ. Nếu nó không hung hãn và nóng nảy, thì nó sẽ trở nên đệ tử của Phật. Những tập khí xấu và vô minh sâu dày ấy đã dẫn chúng đến với quyến thuộc nhà ma.
Rồi nó sẽ nhận quả báo gì trong tương lai, thật là một vấn đề quá xa xôi, khó có thể trả lời chính xác. Nếu nó gặp được người có thần thông lớn hơn nó và có khả năng giáo hóa, thì nó có thể được hàng phục và chuyển hóa thành hư không. Còn như nếu nó không được thu phục, nếu vẫn còn tiếp tục làm những việc ác không chịu hối cải, tâm tính mê muội, bội giác hiệp trần, đương nhiên chúng sẽ nhận lấy quả báo vô cùng đau khổ trong tương lai.
Nó có thể đọa vào súc sinh, là loài chồn loài cáo. Đó là do tinh linh của quỷ khiến cho chúng biến thành loài súc sinh này. Chúng có thể biến thành rắn hoặc chuột, hoặc những loài vật kỳ lạ khác. Những sự biến hóa này là do ma lực của quỷ. Những loài ác thú như cọp beo thì rất mạnh và hung dữ vì nó có thêm được ma lực gá vào.
*
Trên núi có yêu quái, trong nước cũng có thuỷ quái. Người chưa khai mở con mắt trí huệ, thì không thấy được cảnh giới nầy, người nào khai mở rồi thì sẽ biết. Kỳ thật, trong lỗ chân lông của mỗi người, đều có yêu sơn thuỷ quái đang ở trong đó.
Trong Kinh Hoa Nghiêm chẳng phải tôi đã từng nói qua, thân người đều có vi trùng chăng? Con mắt thịt của phàm phu, nhìn chẳng thấy đủ thứ cảnh giới ở trên núi. Nếu khai mở con mắt trí huệ, mắt pháp, mắt thịt, mắt trời, mắt Phật. Người có năm con mắt, thì sẽ biết cảnh giới giữa phàm phu chúng ta và lý thể chân thật bên ngoài chẳng như nhau.
Nếu phân tích tỉ mỉ thì Thần tiên có cảnh giới của Thần tiên, yêu ma quỷ quái có cảnh giới của yêu ma quỷ quái, chứng quả La Hán có cảnh giới của chứng quả La Hán, cho đến Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật, đều có cảnh giới của các Ngài. Cho nên nói: “Sơ địa chẳng biết Nhị địa, Thập địa chẳng biết Đẳng Giác.” Bồ Tát sơ địa chẳng biết Bồ Tát nhị địa như thế nào; Bồ Tát thập địa chẳng biết Đẳng Giác như thế nào. Một bậc cao hơn một bậc, bạn đừng có nghĩ “Tôi muốn cao hơn người khác”. Cảnh giới chưa chứng đắc, thì mình không thể biết cảnh giới của người khác.
*
Ví như hư không, chúng ta nhìn là hư không, nhưng Phật nhìn thì đầy khắp hư không đều là Phật Pháp Tăng Tam Bảo, đều là nơi hoằng dương Phật pháp. Cảnh giới của chư Phật, tại Thường Tịch Quang tịnh độ cũng đang chuyển bánh xe pháp, giáo hoá chúng sinh. Bất quá, hết thảy chúng sinh đều giáo hoá không dễ dàng.
Núi có yêu núi, có con một chân một đầu, có con một chân một trăm đầu, có con một chân một ngàn đầu, một vạn đầu, thật là cổ quái ! Có con một đầu một trăm chân, một đầu một ngàn chân, hoặc một ngàn tay, một vạn tay, một vạn chân. Tay của chúng bảy trên tám dưới đều có, mỗi bàn tay đều cứng lợi hại như đao, mỗi chân đều cứng chắc, súng đạn cũng không làm gì được. Một cái chân sinh ra rất nhiều thân, chỉ có một cái đầu, cổ linh tinh quái, khiến cho con người không thể tưởng tượng được. Trong núi quái vật có mười cái thân dài cùng nhau.
Bây giờ nhiều trẻ con mới sinh ra hai người dính nhau, đây đều là quả báo sơn yêu quỷ quái, đồng tính luyến ái, đây là nhân quả.
Khai thị về Yêu quái thời hiện đại
Hãy nhìn xem toàn thế giới khắp nơi đều là yêu ma quỷ quái, thần thông của chúng quảng đại; đều hoá thân đến làm người, cho nên làm những việc hại người. Phật cũng hoá thân đến thế gian làm người, nhưng làm những việc đều lợi ích cho mọi người, chẳng hại người.
Lợi người là Phật, hại người là ma. Chỗ nầy có thể thấy sự khác biệt giữa Phật và ma; không những Phật có thần thông, mà ma cũng có thần thông; thần thông giữa Phật và ma đều có sở trường khác nhau. Ma thì cứ chế tạo vũ khí giết người, chế tạo khí độc tiêu diệt nhân tính, dẫn đến chiến tranh hoá học.
Hiện tại chúng ta nên phản tỉnh sâu sắc: Trên thế gian tạo vũ khí giết người rất thông minh, nhưng thông minh dùng không chánh đáng. Lại có những người chuyên môn tạo vũ khí đề phòng, bất quá làm không dễ, phòng chẳng thắng phòng, vì nó quá độc quá lợi hại.
*
Phía trước thì những yêu ma quỷ quái thác sinh làm người. Đầu óc của chúng rất thông minh, nhưng dùng để hại người, chuyên môn tạo vũ khí giết người. Phía sau thì Phật Bồ Tát hoá thân đến thế gian, chuyên môn nghiên cứu như thế nào để bảo hộ người, lợi ích người; làm thế nào để khiến cho con người bình an vô sự. Các Ngài làm những công việc nầy, nhưng sức lực của ma rất lớn.
Đừng cho rằng hiện tại đó là những nhà khoa học gia, kỳ thật đều là yêu ma quỷ quái xuất hiện ra đời. Tôi nói lời nầy, rất nhiều người không tin, nhưng thời giờ đã đến rồi, tôi không thể không nói. Trong số các vị, nếu ai minh bạch đạo lý nầy, thì hãy mạnh dạn lên tiếng thật to, đề xướng bảo hộ nhân loại.
Phía trước nhìn thấy là một người, kỳ thật chẳng phải người, mà là yêu ma quỷ quái, chuyên làm việc hại người. Quán sát một người xem tựa rất thông minh, nhưng chẳng có tơ hào tư tưởng đạo đức, nơi nơi đều vì mình, chẳng giúp đỡ người khác, ích kỷ lợi mình, đây cũng là yêu ma quỷ quái.
Yêu quái tạp truyện ký
1. Theo sưu Thần Ký: Phía Nam thành An Dương có một đình miếu, nơi này không thể ở lại. Nếu ở lại thì sẽ bị giết. Có một người học trò mới đi qua ở lại nơi đó, người giữ đình nói: “Nơi này không thể ở lại. Từ trước đến nay người ở lại đây chưa có ai sống được.”
Người học trò nói: “Không sao, tôi chẳng sợ.”
Học trò ở lại trong ngôi đình, ngồi nghiêm trang đọc sách rồi đi nghỉ. Nửa đêm học trò tỉnh dậy thấy có một người mặc áo mỏng màu đen đi qua đi lại ngoài cửa.
Người áo đen gọi người giữ đình hỏi: “Trong đình có người phải chăng?”
Đáp: “Có một người học trò ở đây đọc sách, hình như mới ngủ.”
Người áo đen liền im lặng bỏ đi.
Một lát sau có người đầu bịt khăn, mặc áo đỏ đến hỏi người giữ đình y như người trước, rồi cũng im lặng bỏ đi. Lâu sau không thấy gì, học trò ra cửa rồi giả gọi hỏi người giữ đình như hai người trước.
*
Sau lại hỏi thêm: “Người mặc áo đen đến là ai?”
Đáp: “Là con heo mẹ của nhà phía Bắc.”
Lại hỏi: “Người đầu bịt khăn mặc áo đỏ là ai?”
Đáp: “Là con gà trống cha của nhà phía Tây.
Hỏi: “Còn ông là ai vậy?”
Đáp: “Tôi là con bò cạp.”
Sau đó người học trò cố gắng đọc sách đến sáng không dám ngủ. Trời sáng dân quanh đình đến coi xem kinh ngạc nói rằng: “Vì sao anh sống được vậy?”
Người học trò nói: “Anh cầm dây và hòm đến đây, tôi và anh bắt yêu quái!”
Thế là họ đào nơi có tiếng người coi đình trả lời; quả nhiên bắt được con bò cạp, to như cây đàn tỳ bà, nọc độc dài mấy thước. Họ lại đến nhà phía Tây liền bắt được con gà trống cha; đến nhà phía Bắc bắt được con heo mẹ. Dân lang đem giết chết cả ba con vật này. Từ đó ngôi đình hiểm độc liền được bình yên, vĩnh viễn không còn yêu quái tác quái nữa.
2.
Theo sưu Thần Ký: Thái Thú Quế Dương-Giang Hạ-Trương Di, là Thủ Thăng Cao, ở vùng Yên Lăng. Trong ruộng có cây lớn, hơn mười người ôm không xuể; Tán che kín sáu mẫu, cành lá sum sê, đất quanh đó cây cỏ hoa màu không sống nổi. Thăng Cao sai lính chặt cây, búa rìu chặt chưa đổ cây lớn thì có máu chảy ra. Lính chặt cây kinh hãi trở về. Cao nghe vậy nổi giận bảo: Cây già có mủ đỏ điều này có gì kỳ quái?
Sau đó ông ta tự mình chặt cây, thấy máu chảy ra rất nhiều. Lúc chặt cành thì thấy một ông lão đầu tóc bạc phơ, cao bốn-năm thước, từ hư không hiện ra đi đến. Ông ta nổi giận dùng đao quay lại chém chết ông lão. Mọi người thấy vậy đều kinh hãi nằm rạp xuống đất. Lúc nhìn lên, thấy ông lão ấy tựa như người mà không phải người; tựa như thú mà không phải thú, chẳng biết là giống yêu quái gì. Trong năm chặt cây ấy, Thăng Cao làm Tích Tư Không Ngự Sử-Thứ Sử Châu Duyễn.
3.
Theo Thuật Dị Ký: Đầu niên hiệu Nguyên Gia nhà Tống. Vùng Phú Dương có người họ Vương, làm nghề bắt cua ở trong những vùng ao hồ mương máng. Một hôm anh ta phát hiện trong nơm bị hỏng, trong ấy chỉ có một khúc gỗ dài hơn hai thước, còn tôm cua tuyệt chẳng có. Anh vứt khúc gỗ lên bờ, sửa nơm đặt xuống mương rồi về. Hôm sau đến kiểm tra lại thấy khúc gỗ trong nơm, cua tôm không còn và nơm bị hỏng như trước. Ba bốn lần như thế, anh ta ngờ khúc gỗ này là yêu quái, liền bỏ khúc gỗ bỏ vào giỏ gánh về.
Gần đến nhà khoảng ba dặm, nghe trong giỏ tre có tiếng chuyển động sột soạt, quay đầu lại nhìn thì thấy đầu khúc gỗ trước đây biến thành một vật khác: Mặt người, thân khỉ, chỉ có một tay một chân. Vật ấy nói với Vương: “Tánh tôi thích cua. Gần đây quả có phá hư cái nơm của anh để ăn cua. Mong anh tha tội cho một lần. Tôi là Thần Núi, tôi sẽ phù hộ cho anh được nhiều tôm cua.”
*
Vương nói: “Ông trộm cua còn làm hư nơm của ta nhiều lần. Tội ấy đáng phải chết.”
Vật ấy hết lòng cầu xin tha mang, nhưng Vương không chịu.
Về sau nó bảo: “Anh họ gì tên gì, tôi mong được biết?”
Nó hỏi liên tục nhưng Vương vẫn không trả lời. Đi gần đến nhà vật than: “Đã không tha cho tôi, lại không nói cho tôi biết họ tên. Thôi đành thuận theo mà chờ chết vậy!”
Vương đến nhà nhóm lửa cháy rực để đốt. Về sau không thấy còn gì kỳ dị nữa. Phong tục địa phương nói rằng đó loài Sơn Tiêu. Nó nếu biết họ tên của người nào thì có thể làm hại được người ấy.
Những chuyện về yêu quái sau đây trích từ Quán Thế Âm Cảm Ứng Tụng.
Theo Đường Tam Tạng Truyện. Ngài Huyền Trang đi đến vùng Lưu Sa, trên con đường dài hơn tám trăm dặm, trên trời không có chim bay, dưới đất không có thú chạy. Yêu quái nổi lửa, ánh lửa lập lòe như sao sa, Ngài trọn chẳng sợ hãi. Chỉ đến khi hết nước đã năm ngày, gần chết, không đi được nữa. Ngài nằm trên cát, thầm niệm Quán Âm, nguyện rằng:
“Huyền Trang đi chuyến này, chuyên vì vô thượng đạo tâm chánh pháp mà ra đi. Bồ Tát từ bi nghĩ đến chúng sanh, chuyên cứu khổ, há chẳng biết con khổ sở ư?”
Nửa đêm, chợt có trận gió mát thổi qua thân, mát mẻ như được tắm trong nước lạnh; mắt liền sáng ra, ngựa cũng trỗi dậy được. Đi tiếp, ngựa chợt đổi hướng, chế ngự không được, bèn thấy một vùng cỏ xanh rộng mấy mẫu. Lại có một cái ao, nước ngọt, trong suốt. Xuống ngựa uống nước, thân mạng khôi phục. Xét ra chỗ này trước kia vốn không có, nhất định phải là do Bồ Tát từ bi hóa hiện.
*
Theo Dị Đàm Khả Tín Lục, trong niên hiệu Khang Hy đời Thanh; em gái của Trịnh Quốc Tướng huyện Tiền Đường bị hồ ly quấy nhiễu đến nỗi choáng váng, chết ngất. Khi ấy, Quốc Tướng tụng Tâm Kinh, cô ta mới tỉnh. Quốc Tướng liền cầu đảo Đại Sĩ, nguyện thí hai ngàn quyển kinh để trừ yêu quái cứu em gái.
Đang trong lúc nguy cấp, Đại Sĩ hiện thân trên không trung, hô: “Nghiệt súc! Sao lại đến nơi này?”
Lũ hồ thưa: “Do đói khát nên tới kiếm ăn”.
Đại Sĩ đưa tay chỉ, yêu quái bay vọt lên không rồi chẳng thấy nữa. Mọi người nghe mùi hương lạ ngập nhà. Về sau, người em gái mộng thấy có người dùng thương chống vào một cái đầu đầy lông lá, nói: “Phủ của Hồ Tam Giao chân nhân đã bị tru lục rồi!”
Theo Nam Hải Từ Hàng, vào đời Minh; vợ của Vu Ngọc Bệ ở Tiền Đường bị yêu quái quấy nhiễu đã ba năm. Một đêm bà mộng thấy Đại Sĩ giáng xuống, ngự trên đám mây, quang minh chói rực hư không, quỷ mị trốn biệt. Về sau tới lễ Liên Trì đại sư, bệnh trầm kha liền lành.
Lý Tinh Viên ở Phù Lương từ nhà ra quán, trăng mờ mông lung, đi đứng nhiều trở ngại, bèn niệm bài kinh do Quán Âm truyền trao trong mộng. Vừa mới tụng bảy biến, mới biết đang đi trong lùm gai. Thường nghe người ta nói chỗ ấy có yêu quái mê hoặc người. Nếu không tu tập bài kinh ấy, chẳng thể nào tìm đường thoát ra được!
*
Theo Quảng Dị Ký, đời Đường, vợ ông Vương Kỳ mắc bệnh dịch. Ông Kỳ tụng Tâm Kinh, thấy dưới đèn có ba đầu người. Vợ ông đớ mắt, không nói được, chỉ lấy tay chỉ chỗ mình thấy. Ông Kỳ bèn cầm đao hướng về chỗ vợ chỉ chém xuống. Bà vợ chợt nói: “Trong cửa sổ có yêu quái, mũi dài mấy thước. Trước giường có hai con vật giống như lạc đà, đều bị chém tiêu hết rồi”. Ông Kỳ tụng kinh bốn mươi chín biến, vợ bèn lành bệnh.
Theo Thanh Minh Đầu Hạt Lục, có hai con lạc đà nói chuyện, một con xưng là Xá Nhân, con kia xưng tên là Gián Nghị.
Đời Tống, con nhà họ Uông ở Kỳ Môn đi đường, bị mấy người trói lại đem đi. Họ trói vào cột của ngôi miếu cổ, thưa rằng: “Xin mời đại vương tự nhận lấy”. Uông biết là bọn họ giết người tế quỷ, bèn niệm tụng chú Đại Bi. Ban đêm, có tiếng gió rít như tiếng sấm; một con mãng xà to mắt sáng như đuốc bò tới, ba lượt tiến lại lùi. Sáng ra, cậu Uông được người khác cởi trói, liền thoát nạn.
*
Theo Linh Nghiệm Ký. Trương Thành ở Cát Thủy, trong niên hiệu Càn Đạo đời Tống, nghỉ đêm ở vùng ranh giới Lễ Lăng. Chủ quán tiếp đón trọng thể, rượu nồng, cỗ đầy. Ông ta kinh ngạc, lấy làm lạ, thoái thác không thể uống rượu rồi bỏ đi ngủ. Hồi lâu, thấy đuốc trong gian nhà chính thắp sáng, bèn nhìn trộm; thấy chủ quán lạy lục, khấn trước một bức tranh vẽ, nhiều lần nhắc tới ông khách họ Trương. Ông biết là hắn sẽ đem mình tế quỷ.
Nhìn sang bức tranh vẽ, thấy hai tròng mắt như cái chén, vô cùng kinh sợ. Ông Trương vội trì chú Đại Bi. Vừa được mấy biến, thấy yêu quái từ trong bức vẽ tụt xuống, hình dạng đanh ác. Ông đóng cửa dốc sức tụng chú, nghe ngoài cửa có tiếng đập phá.
Trời vừa sáng, ông Trương chạy ra, nghe thấy người nhà chủ quán kêu khóc. Ông đi hai dặm mới tạm nghỉ, nghe người ta nói: “Chủ quán chết bất ngờ”. Cật vấn sự tình thì ra nhà ấy ba đời thờ yêu quái, mỗi năm tế một người. Nếu không có người ngoài thì sẽ giáng họa xuống chủ nhà.
*
Theo Liễu Nhai Ngoại Biên. Vùng Giang Nam khi làm lễ Hồi Sát, liền bày rượu thịt rồi trốn qua chỗ khác. Có kẻ đầy tớ ban đêm đi công việc về tới. Y không biết là ngày Hồi Sát, lại quá đói bèn ngồi xổm ăn uống. Chợt thấy một con quỷ lạ lùng cao tới hai trượng. Tay nó cầm chĩa ba dài chừng một trượng, áp giải một ông già tới.
Tên đầy tớ trốn vào chái nhà, dòm trộm; thấy ông già ngồi ghé bên cạnh, còn quỷ ngồi ở phía trên ăn uống nhồm nhoàm. Trong chốc lát, ông già xin phép quỷ vào nhà sau để nhìn qua tình hình, quỷ bằng lòng. Tên đầy tớ thấy cái chĩa ba trong ngần, lóng lánh đáng yêu bèn vớ lấy, chạy vào buồng, đóng chặt cửa.
Quỷ kiếm chĩa ba, vươn cánh tay xanh rì gõ cửa, gió quái dị từ bốn phía thổi ùa tới, buốt tận xương. Tên đầy tớ niệm chú Đại Bi, quỷ lùi bước, gió tan. Vừa mới ngưng niệm, quỷ liền duỗi chân bước vào; tên đầy tớ cảm thấy hơi lạnh từ đất xông lên, buốt tới đùi rồi tới eo; hắn vội niệm chú như trước, quỷ liền rụt chân lại.
Gà gáy, quỷ bèn lôi ông già đi. Trời sáng dần, chĩa ba teo nhỏ dần còn chừng một tấc, nhìn rất tinh xảo. Chĩa này hễ đến nhà người bị bệnh sốt rét liền ngân lên một tiếng, bệnh gần như mất tiêu.
*
Theo Dị Đàm Khả Tín Lục, vào đời Thanh, Trần Quý ở Giang Hạ, vừa có chí nguyện vừa hiếu thảo. Trong thời Càn Long, ông qua nhà của người họ hàng bên ngoại là X… mộng thấy một khối tròn đen xì giống như hình người duỗi bàn tay to đùng kéo ông ra ngoài, đánh không ngừng. Ông hôn mê một lúc lâu mới tỉnh lại, trở nên điên cuồng, câm bặt không nói được suốt năm sáu năm.
Về sau, mộng thấy một bà cụ đầu đội lúp trắng, xách giỏ, bảo hãy nuốt viên thuốc hồng đựng trong giỏ. Ông Quý muốn giữ lại để dâng cho mẹ, bà cụ ép nuốt, lấy gậy quật vào lưng. Ông Quý bèn tỉnh giấc, chẳng còn thấy khối đen tròn truy đuổi nữa, khỏi ngay bệnh điên.
Ngày hôm sau, thấy ở cạnh miếu có người xách giỏ, hình dáng, ăn mặc giống như người trong mộng, muốn cảm tạ nhưng không nói được, bà cụ cũng chợt mất dạng. Đến buổi chiều, hầu [mẹ ăn] cơm, đột nhiên nói ra tiếng, cả nhà kinh ngạc, hỏi han. Ông kể lại những gì được thấy trong mộng, [người ta nói] ấy chính là Ngư Lam Đại Sĩ được lưu truyền trong cõi đời; do vậy bèn vẽ tượng cúng dường.
*
Theo Tĩnh Hàm Bút Ký, trong niên hiệu Gia Khánh, kỳ nhân là Văn Hải cùng với anh lập đàn, tập luyện binh thư Vũ Bị Lục. Trong nhà họ đã thờ Quán Âm từ trước, Bồ Tát bèn giáng đàn khuyên: “Đây không phải là chánh đạo, tập theo sẽ bất lợi. Cha các ngươi làm lành rất nhiều, và do bà cố ăn chay, tin tưởng làm lành, nên được quả báo con cháu là hạng trâm anh hiển hách nhiều đời. Anh em các ngươi tập luyện thứ này sẽ có tai họa bất trắc, cho nên ta đến cứu”.
Quán Âm Bồ Tát cho biết: “Trong ngày Hai Mươi Mốt tháng Sáu năm nay, Hải sẽ bị sét đánh”, rồi sai người anh hãy đưa tay viết, vẽ lên ngực ông Hải. Trong chớp mắt, thấy con vượn trắng đang vờn quanh thân mình đã bị thần bắt ném đi. Văn Hải viết:
“Đến ngày Hai Mươi Mốt tháng Sáu năm ấy, sấm sét nổ dữ dội quanh nhà, nghĩ đến mà run rẩy. Nay được nghe lời truyền bảo tại vùng Giang Hữu đang khắc sách Hải Nam Hợp Biên, chẳng dám tự giấu diếm, mà cũng chẳng dám có một chữ dối đời. Chép vào cuối sách để trên là báo ơn Đại Sĩ cứu vớt”.
Xét ra Văn Hải làm quan đến chức Án Sát, thọ bảy mươi hai tuổi; đủ thấy người có thể sửa lỗi hướng lành sẽ tự hưởng phước, thoát khỏi tai họa.
( Yêu quái tạp truyện ký )
Tuệ Tâm 2022.