Thầy Thích Minh Thành mặc dù đã tạ thế rất lâu, thế nhưng những di sản mà người để lại cho chúng Tăng ni, Phật tử sẽ vẫn còn mãi. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn hiểu kỹ hơn về cuộc đời và đạo nghiệp của thầy, cùng với đó là những thành tựu to lớn mà thầy đã đạt được trong công cuộc hoằng dương Phật pháp.
Tiểu sử thầy Thích Minh Thành
Hòa thượng Thích Minh Thành có pháp danh là Nhựt Sanh, pháp tự là Thiện Xuân, thuộc thiền phái Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41. Ngài vốn có thế danh là Hà Văn Xin, sinh ngày 4/8 năm 1937, tại làng Khánh Hòa, huyện Châu Phú, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang). Thân phụ của ngài là cụ Hà Văn Chính, thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Lê, có pháp hiệu là Thích Nữ Như Quả. Ngài là người con thứ 5 trong một gia đình có 5 anh chị em, bao gồm 2 trai và 3 gái.
Thầy Thích Minh Thành sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân hiền lành, phúc hậu, có truyền thống kính tin vào Tam bảo. Năm 1941, khi ngài lên 6 tuổi, thân phụ của ngài đã qua đời. Khi này ngài đã được mẹ dẫn đến chùa Long Khánh, thuộc xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú, tỉnh Châu Đốc để sớm hôm kinh kệ cầu siêu cho cha. Nhờ vào duyên lành này với túc duyên sẵn có, khiến cho thầy Thích Minh Thành mến cảnh thiền môn, cho nên mẹ ngài cho phép ngài được xuất gia quy y cửa Phật với Hòa thượng trụ trì khi đó là thầy Thích Huệ Pháp, húy danh Hồng Phó. Nhờ vậy mà ngài được ban pháp danh là Nhựt Sanh.
Hòa thượng Thích Minh Thành đột ngột ra đi về cõi Phật vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 15 tháng 1 năm 2000, tức ngày mồng Chín tháng Chạp năm Kỷ Mão, tại Tổ đình Ấn Quang. Ngài đã trụ thế 63 năm, giới lạp trải 38 mùa an cư kiết Hạ. Ngài ra đi khi tuổi đời vẫn còn chưa vượt quá 70, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho chúng Tăng ni, Phật tử. Thế nhưng những di sản mà ngài để lại vẫn sẽ còn mãi mãi.
Quá trình hoạt động và đạo nghiệp của thầy Thích Minh Thành
Năm 1947, sau khi Bổn sư Thích Huệ Pháp viên tịch, hòa thượng Thích Minh Thành đã tìm tới vùng núi Thất Sơn, tỉnh Châu Đốc để tầm phương học đạo. Đầu tiên, ngài đến tham học với Sư Chú ngụ tại chùa Định Long ở núi Sam.
Khi vào năm 14 tuổi (1950), ngài lại sang núi Cấm để tu học với pháp huynh là Thiện Huệ tại Vồ Bồ Hong. Một năm sau, ngài xuống núi đến cầu pháp với Hòa thượng Thích Thiện Ngôn, thuộc sơn môn Thiên Thai Thiền Giáo Tông, trụ trì chùa Phước Hậu, tỉnh Long Xuyên. Khi này ngài được Hòa thượng đặt pháp tự là Thiện Xuân. Hòa thượng cho phép ngài theo học trường Phật học gia giáo mở tại chùa Bình An, tỉnh Châu Đốc.
Năm 1952, sau khi học xong lớp sơ cấp, hòa thượng Thích Minh Thành đã được Hòa thượng Y chỉ sư cho lên Sài Gòn theo học tại Phật học đường Giác Nguyên – Khánh Hội, do Hòa thượng Lê Phước Bình làm người chủ giảng. Cũng trong năm này, ngài được đăng đàn thọ giới Sa di trong giới đàn của Phật học viện tổ chức, do Hòa thượng Hành Trụ – Phước Bình làm Đàn đầu truyền giới.
Năm 1956, được Hòa thượng Thích Thiện Huyền giới thiệu, thầy Thích Minh Thành đã tìm đến nhập chúng tu học theo chương trình trung đẳng tại Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang, Chợ Lớn do Hòa thượng Thích Thiện Hòa làm Giám đốc kiêm trụ trì. Nhân duyên đã tìm đến ngài tại đây, ngài xin cầu pháp với Hòa thượng Thích Thiện Hòa, được Hòa thượng đặt pháp hiệu mới là Minh Thành. Từ đó, ngài ở lại chùa Ấn Quang phụ giúp cho Hòa thượng Giám đốc trong các công việc Phật sự của trường và Tam bảo.
Năm 1957, Hòa thượng Đốc giáo Thích Thiện Hòa mở khóa huấn luyện trụ trì “Như Lai sứ giả” tại chùa Pháp Hội – Chợ Lớn, thầy Thích Minh Thành đã được đặc cách tham dự khóa học này.
Năm 1962, sau khi mãn khóa trung đẳng Phật học, ngài được đăng đàn thọ Cụ túc giới trong giới đàn do ban Giám đốc Phật học viện tổ chức. Giới đàn này do Hòa thượng Thích Thiện Hòa làm Đàn đầu truyền giới. Tốt nghiệp trung đẳng và viên mãn giới pháp xong, ngài được phân công đi thuyết giảng giáo lý ở các trường Bồ Đề, các lớp sơ đẳng Phật học ở Sài Gòn – Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây Nam bộ.
Năm 1963, trong phong trào chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Thầy Thích Minh Thành đã tích cực tham gia cùng chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo cho đến khi phong trào thành công tốt đẹp.
Năm 1964, sau khi chế độ nhà Ngô Đình Diệm sụp đổ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập, thầy Thích Minh Thành tham gia công tác tổ chức các Ban đại diện Phật giáo Sài Gòn-Gia Định và được cử làm Chánh đại diện Phật giáo phường Yên Đỗ – quận 3. Vào ngày Phật đản Phật lịch 2508, ngài cùng Ban đại diện Phật giáo quận 3 tiến hành xây dựng Niệm Phật đường Minh Đạo tại phường Yên Đỗ, tiền thân của chùa Minh Đạo sau này, và ngài đã trụ trì ở đây cho đến tận năm 1992.
Năm 1965, thầy Thích Minh Thành xây dựng Niệm Phật đường Pháp Vân tại phường Trương Minh Giảng, quận 3, là tiền thân của chùa Pháp Vân sau này. Với chí nguyện về giáo dục, ngài đứng ra thành lập trường tiểu học Bồ Đề Pháp Vân và làm Hiệu trưởng đến ngày đất nước thống nhất vào năm 1975.
Năm 1969, ngài được cử làm Giám đốc trường trung tiểu học Bồ Đề Chợ Lớn tại chùa Giác Ngộ. Trường hoạt động đến năm 1975 thì trả cơ sở lại cho chùa. Cũng tại cơ sở này, ngài lại mở phòng Y tế từ thiện Phật giáo do ngài làm trưởng ban, điều hành hoạt động tại đây hơn 10 năm.
Năm 1971, Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm được thành lập do Hòa thượng Thích Trí Tịnh làm Giám đốc, thầy Thích Minh Thành được theo học đến mãn chương trình Cử nhân Phật học (năm 1975) và Cao học Phật học (năm 1977).
Năm 1976, theo tôn ý Hòa thượng Thích Thiện Hòa khi lâm trọng bệnh, Hội đồng Quản trị Tổ đình Ấn Quang được thành lập do Hòa thượng Huệ Hưng làm Tổng lý, ngài được cử làm Phó Tổng thư ký, có nhiệm vụ quản trị Tổ đình và các cơ sở trực thuộc.
Năm 1979, Tổ đình Ấn Quang khai giảng Phật học viện Thiện Hòa, thầy Thích Minh Thành được cử làm Giám đốc Phật học viện và các cơ sở trực thuộc tại Ấn Quang, Giác Ngộ, Giác Sanh. Phật học viện hoạt động đến năm 1984 thì kết thúc để chuyển sang chương trình giáo dục mới do Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh quản lý.
Năm 1981, ngài là thành viên đoàn Đại biểu Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh tham dự Hội nghị thống nhất Phật giáo toàn quốc, tổ chức tại thủ đô Hà Nội để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Sau đại hội, ngài được mời giữ chức Thư ký Ban Hoằng pháp Trung ương suốt 2 nhiệm kỳ đến năm 1997.
Năm 1982, tại Đại hội thành lập Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh, thầy Thích Minh Thành được chư tôn đức tín nhiệm cử làm Ủy viên Ban Trị sự Thành hội Phật giáo nhiệm kỳ thứ I.
Năm 1988, trường Cơ bản Phật học thành phố Hồ Chí Minh được thành lập; Hòa thượng Thích Từ Thông làm Hiệu trưởng, hòa thượng Thích Minh Thành làm Hiệu phó, phụ trách điều hành và giảng dạy tại đây hơn 10 năm.
Năm 1992, ở Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ III, ngài được cử làm Phó ban thường trực Ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương và Ủy viên Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Với chí nguyện hoằng pháp độ sinh, giáo dục Tăng Ni hậu duệ, thầy Thích Minh Thành đã dành nhiều thời gian đi giảng dạy Phật pháp tại các giảng đường, các lớp Phật học ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam bộ.
Năm 1993, khi Hòa thượng Thích Minh Hạnh, tổng Quản sự Tổ đình Ấn Quang viên tịch, thầy Thích Minh Thành được cử làm Trưởng ban Quản trị Tổ đình (gồm 4 vị: Hòa thượng Minh Thành, Trí Quảng; Thượng tọa Nhật Quang, Minh Phát) kiêm Giám đốc Đại Tòng Lâm Phật giáo ở Bà Rịa – Vũng Tàu.
Tháng 3 năm 1997, tại Đại hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh, thầy Thích Minh Thành được cử là Ủy viên Hướng dẫn Phật tử. Đến tháng 11 cùng năm, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IV ở Hà Nội, ngài được tái tục giữ chức Phó ban Hướng dẫn Phật tử trung ương kiêm Trưởng phân ban Cư sĩ. Khi Ban Hướng dẫn Phật tử thành phố được thành lập, ngài là Trưởng ban Hướng dẫn Phật tử thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1998, Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Bà Rịa – Vũng Tàu ra quyết định bổ nhiệm thầy Thích Minh Thành làm Phó ban Quản trị Đại Tòng Lâm Phật giáo, tiếp tục quản lý điều hành cơ sở Đại Tòng Lâm Phật giáo, di tích của cố Hòa thượng Thích Thiện Hòa dày công sáng lập. Ngài đã phát động chương trình trùng tu, dự trù kiến tạo một Đại Tòng Lâm có quy mô và tầm vóc xứng đáng. Ngài đã dồn hết tâm sức vào việc xây dựng cơ sở, củng cố đạo tràng và đi khắp nơi vận động tài chính để thực hiện công trình này.
Bằng giới đức trang nghiêm, đạo hạng kiêm ưu, hòa thượng Thích Minh Thành được cung thỉnh làm Giới sư, Luật sư truyền giới trong các Đại giới đàn ở khắp nơi. Có hàng ngàn giới Phật tử, Tăng ni đã từ nơi ngài được thành tựu giới pháp, tiếp nối sự nghiệp “tục Phật huệ mạng, lưu truyền chánh pháp thường tại thế gian”.
Một số tác phẩm của thầy Thích Minh Thành biên dịch và biên soạn
Trong suốt sự nghiệp tu hành và hoạt động của bản thân, hòa thượng Thích Minh Thành đã biên soạn nhiều giáo trình cho các trường Phật học, để lại di sản đồ sộ cho thế hệ sau. Một số tác phẩm nổi tiếng của ngài được in thành sách xuất bản hiện nay có thể kể đến như:
– Phật học Đức dục.
– Luật học Cơ bản.
– Tỳ ni – Sa di Yếu giải.
– Oai nghi – Cảnh sách Yếu giải.
– Bồ Tát giới Yếu giải.
– Tỳ kheo giới Yếu giải.
– Bồ Tát Ưu Bà Tắc giới kinh.
– Kỷ yếu 50 năm Tổ đình Ấn Quang.