Pháp Giới 11 tháng trước

Kinh Pháp Cú Thí Dụ ♦ Quyển 4

Kinh Pháp Cú Thí Dụ ♦ Quyển 4

Vào thời Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời người ở thành Phong Đức, bấy giờ trong thành có một Phạm Chí trưởng giả giàu sang vô cùng. Tuy nhiên ông rất keo kiệt, chẳng ưa bố thí, lúc ăn luôn đóng cổng nhà và không vui thích gặp người qua lại. Nếu khi đến giờ ăn, ông liền sai cho kẻ giữ cửa đóng chặt cổng để khỏi có ai vào trong. Đạo Nhân, Phạm Chí, hay những kẻ ăn xin đều chẳng thể nào gặp được ông ta.

Một hôm ông trưởng giả bỗng nhiên thèm ăn ngon. Ông sai vợ đi giết một con gà béo mập để làm bữa cơm thịnh soạn. Vợ ông lấy gừng và tiêu để ướp thịt gà, rồi mang đi nướng chín. Khi thức ăn nước uống được dọn lên tươm tất, ông sai người đóng cổng ngoài. Hai vợ chồng ngồi xuống và đặt đứa con nhỏ ở giữa, rồi cùng nhau ăn uống. Hai vợ chồng cứ thay phiên liên tục lấy thịt gà bỏ vào miệng của đứa bé.

Đức Phật biết phước đức của trưởng giả ở đời trước và đáng được hóa độ, nên Ngài hóa làm một vị Đạo Nhân, rồi xuất hiện ở trước chỗ ngồi của trưởng giả và chú nguyện rằng:

“Xin hãy bố thí một chút thức ăn thì có thể sẽ được đại phú.”

Ông trưởng giả ngẩng đầu lên thì trông thấy hóa Đạo Nhân nên liền mắng chửi rằng:

“Ông là người tu hành mà chẳng biết liêm sỉ. Gia đình người ta đang ngồi ăn cơm mà sao ngang nhiên xông vào như thế?”

Đạo Nhân đáp rằng:

“Chính ông mới ngu si và không biết xấu hổ. Tôi là một khất sĩ, có gì mà xấu hổ?”

Trưởng giả hỏi rằng:

“Tôi và gia đình đang vui vẻ với nhau, có gì mà xấu hổ?”

Đạo Nhân đáp rằng:

“Ông giết cha, lấy mẹ làm vợ, và nuôi dưỡng oan gia mà chẳng biết xấu hổ. Còn tôi là một khất sĩ, có gì mà xấu hổ chứ?”

Lúc bấy giờ hóa Đạo Nhân liền nói kệ rằng:

“Ái dục sanh bất tận
Chỉ dùng tham dục ăn
Nuôi oán, lợi gò mả
Kẻ ngu luôn miệt mài

Tuy ngục có móc xích
Người trí chẳng bảo chắc
Kẻ ngu thấy vợ con
Nhiễm ái hơn lao ngục

Phật nói ái là ngục
Kiên cố khó ra khỏi
Cho nên hãy đoạn trừ
An lạc không tham dục”

Trưởng giả nghe kệ và kinh ngạc hỏi rằng:

“Vì sao Đạo Nhân lại nói những lời này?”

Đạo Nhân đáp rằng:

“Con gà bị giết ở trên bàn là cha của ông ở đời trước. Do lòng keo kiệt nên luôn sanh vào loài gà và bị ông ăn thịt.

Thuở xưa đứa bé này từng làm quỷ bạo ác. Bấy giờ ông là một thương chủ dẫn các thương nhân ra biển, rồi bị lạc ở nước quỷ bạo ác và bị nó bắt ăn thịt. Sau khi đã thọ hết 500 đời như thế, nó sanh làm con trai của ông. Bởi tội của ông chưa hết nên nó mới đến gây hại.

Còn người vợ hiện tại chính là mẹ của ông ở đời trước. Do ân ái sâu đậm nên nay mới sanh trở lại làm vợ của ông.

Ông nay thật ngu si và chẳng biết việc đời trước, giết cha để nuôi kẻ thù và lấy mẹ làm vợ. Chúng sanh thường luân chuyển trong sanh tử không cùng tận ở trong năm đường. Tuần hoàn trong năm đường như thế, ai có thể thấu rõ? Duy chỉ có những bậc tu Đạo mới thấy họ từ nơi này đến nơi kia. Kẻ ngu chẳng biết mà sao còn không xấu hổ?”

Lúc ấy ông trưởng giả hối hận, lông trên thân dựng đứng, và kinh hãi vạn phần. Bấy giờ Đức Phật hiện sức uy thần và khiến ông biết được những việc ở đời trước. Khi trông thấy Phật, ông trưởng giả liền biết chuyện đời trước, rồi sám hối tạ ơn Phật và xin thọ Năm Giới. Sau khi nghe Phật thuyết Pháp, ông liền đắc Quả Nhập Lưu.

Vào thời Đức Phật thuyết Pháp ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức, bấy giờ có một vị Bhikṣu [bíc su] trẻ tuổi vào thành khất thực. Trong thành ngài thấy một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần và cõi lòng chỉ nhớ nhung đến nàng. Do sự mê muội chẳng được giải tỏa nên liền thành bệnh. Ngài không ăn uống gì hết, thân thể tiều tụy, và nằm mãi chẳng ngồi dậy.

Khi ấy các vị đồng tu đến thăm và hỏi rằng:

“Sao thầy chịu khổ não như thế?”

Lúc đó vị Bhikṣu trẻ tuổi mới kể hết sự tình. Kể từ khi nảy sanh ái dục kia nên lòng ngài chẳng còn muốn tu Đạo nữa, ước nguyện lại chẳng được như ý nên ưu sầu thành bệnh. Các bạn đồng học khuyên ngăn nhưng lời của họ chẳng lọt vào tai. Thế nên họ đành phải dìu vị ấy đến chỗ của Phật và kể rõ sự việc với Thế Tôn.

Phật bảo vị Bhikṣu trẻ tuổi rằng:

“Ước nguyện của ông cũng dễ được thôi, đâu cần phải sầu khổ như thế. Ta sẽ lập phương tiện giúp ông. Ông hãy ngồi dậy và ăn uống trở lại.”

Khi vị Bhikṣu nghe lời Phật nói, cõi lòng rất vui mừng và khí huyết lưu thông.

Lúc bấy giờ Thế Tôn dẫn vị Bhikṣu này và đại chúng vào thành Phong Đức, rồi đến nhà của cô gái xinh đẹp kia. Tuy nhiên cô gái đó đã chết ba ngày rồi. Thân tộc kêu gào thương xót và chẳng nỡ vội mai táng, nên thân xác trương phình, bốc mùi hôi thối và những thứ bất tịnh chảy ra ngoài.

Phật bảo vị Bhikṣu rằng:

“Những thứ ông tham luyến về cô gái này, nay đã trở thành như vậy đó. Vạn vật vô thường và thay đổi trong từng hơi thở. Kẻ ngu chỉ nhìn xem vẻ ngoài mà chẳng thấy thứ xấu ác của nó. Họ triền miên trong lưới nghiệp tội mà cho là vui sướng.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Thấy sắc tâm mê muội
Vô thường không tư duy
Kẻ ngu cho tốt đẹp
Nào biết đó chẳng thật

Cuộn mình trong ái dục
Ví như tằm nhả tơ
Bậc trí khéo đoạn trừ
Chẳng tiếc, trừ khổ ách

Tâm ai mãi buông lung
Thấy dâm bảo là tịnh
Ân ái ý gia tăng
Từ đó vào ngục lao

Ý ai diệt trừ dâm
Thường niệm dục bất tịnh
Từ đó thoát ngục tà
Khéo đoạn già chết khổ”

Khi nhìn thấy cô gái kia đã chết ba ngày với khuôn mặt trương phình rữa nát, hôi thối không ai dám đến gần, và lại nghe được bài kệ thanh tịnh khai thị của Thế Tôn, vị Bhikṣu trẻ tuổi hoát nhiên tỏ ngộ và biết sự mê muội của mình. Ngài cúi đầu đảnh lễ Phật, sám hối lỗi lầm và quy y Phật, rồi được dẫn về lại Tinh xá Kỳ Viên. Sau đó vị Bhikṣu trẻ tuổi nỗ lực tinh tấn và cuối cùng đắc Đạo Ứng Chân. Bấy giờ đại chúng đi theo và vô số người ở đó đều thấy sự ô uế của sắc dục, tin hiểu lẽ vô thường, khát vọng tham ái đình chỉ, và cũng thấy dấu Đạo.

Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng người, trời rồng, và quỷ thần ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.

Bấy giờ có một đại trưởng giả giàu sang vô cùng. Ông chỉ có một đứa con trai duy nhất, khoảng 12, 13 tuổi. Nào ngờ ít lâu sau cả hai vợ chồng đều lần lượt qua đời. Do cậu bé trẻ tuổi chưa biết làm ăn sinh sống và quản lý gia nghiệp, nên tài sản tiêu tán và chỉ trong vài năm thì gia tài hết sạch. Thời gian sau đó, chàng không thể tự lo bản thân được nữa nên phải đi xin ăn.

Trước đây thân phụ của chàng thanh niên này có một người bạn thân, cũng là một trưởng giả tài phú phi thường. Một hôm ông tình cờ thấy chàng thanh niên này nên mới hỏi sự tình. Khi biết được cảnh ngộ, trưởng giả rất thương xót. Ông dẫn anh ta về nhà, rồi còn gả con gái của mình, cấp cho nô tỳ ngựa xe, và vô số tài vật. Ông lại xây cho một căn nhà để hai vợ chồng trẻ có cuộc sống mới. Tuy nhiên, anh ta là một kẻ lười biếng, chẳng biết lo nghĩ tương lai và không thể làm ăn sinh sống. Do đó tài sản tiêu hao và đời sống của hai vợ chồng ngày càng khốn đốn. Vì thương con gái của mình, ông trưởng giả lại cho thêm tài vật, nhưng cuộc sống của họ dần dần túng thiếu cũng y như trước. Ông trưởng giả hết lần này đến lượt khác lại tiếp tục cho nữa nhưng cũng chẳng được gì. Ông suy nghĩ tiền đồ của chàng rể không thể thành tựu nên muốn đoạt lại con gái và gả cho người khác.

Giữa lúc gia tộc đang cùng nhau bàn luận về việc này thì con gái của trưởng giả tình cờ nghe được, nên trở về kể cho chồng nàng hay và nói rằng:

“Thế lực của gia đình em hùng mạnh và có thể đoạt lại em từ anh, bởi vì anh không thể làm ăn sinh sống. Ý anh nghĩ sao? Anh định tính sao đây?”

Khi nghe vợ mình nói thế, anh chồng xấu hổ và tự nghĩ:

“Đây đều là do mình bạc phước. Từ thuở nhỏ đã mất đi sự che chở và chưa từng học qua phương pháp làm ăn. Nay mình sẽ mất vợ và phải đi xin ăn như trước. Tình nghĩa vợ chồng thắm thiết bao năm qua, nay sẽ phải biệt ly. Làm sao mình có thể chịu nổi?”

Sau khi suy tính nhiều lần, anh ta khởi ác niệm, rồi dẫn vợ vào phòng và nói rằng:

“Nay hai vợ chồng của chúng ta sẽ cùng chết ở đây.”

Và thế là anh ta liền lấy dao đâm vợ, rồi tự tử. Khi phát hiện hai vợ chồng đều chết, các nô tỳ hoảng sợ chạy đến báo cho ông trưởng giả. Toàn thể gia quyến lớn nhỏ của trưởng giả kinh hoàng chạy đến xem. Khi thấy chuyện đã rồi, họ liệm xác hai vợ chồng, rồi đưa đi mai táng theo tục lệ trong nước. Lúc ấy kẻ lớn người nhỏ trong gia đình của trưởng giả đều buồn bã và thương nhớ đứa con gái khôn nguôi.

Trước đó không lâu, ông trưởng giả nghe rằng Đức Phật đã xuất hiện ở thế gian, giáo hóa thuyết Pháp, ai thấy đều hoan hỷ và có thể tiêu trừ mọi ưu sầu hoạn nạn. Vì vậy ông trưởng giả liền dẫn cả gia đình đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Phật và ngồi qua một bên.

Phật hỏi trưởng giả:

“Ông từ đâu đến mà sao nét mặt ưu sầu chẳng vui?”

Trưởng giả thưa rằng:

“[Thưa Thế Tôn!] Gia môn của con bất hạnh. Trước đây con đã gả nhầm ái nữ cho một kẻ ngu si không biết làm ăn sinh sống. Sau đó con muốn đoạt lại con gái. Biết được nên hắn đã giết vợ rồi tự sát. Cả hai vợ chồng đã chết như thế. Sau khi đưa chúng đi mai táng, trên đường về con ghé qua chỗ của Thế Tôn để thân cận.”

Phật bảo trưởng giả:

“Tham dục và sân hận là căn bệnh thường tình của thế gian. Sự ngu si vô trí là tai họa của gia môn. Hữu tình triển chuyển sanh tử nguy hiểm vô số kiếp để chịu muôn vàn khổ đau ở trong năm đường, đều là do nó. Thế mà họ còn chẳng biết hối cải. Hà huống là kẻ ngu si thì làm sao có thể nhận biết được sự ác độc của tham dục. Họ hủy diệt thân tộc, hại mình và chúng sanh. Huống nữa là vợ chồng.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Kẻ ngu trói bởi tham
Chẳng mong qua bờ kia
Do tham tài với ái
Hại người cũng hại mình

Tâm ái dục là ruộng
Tham sân si là hạt
Ai bố thí độ đời
Phước báo vô cùng tận

Ít người mà nhiều hàng
Thương nhân sanh kinh sợ
Tham dục giặc hại mạng
Bậc trí chẳng tham dục”

Khi nghe kệ của Phật nói, ông trưởng giả vui mừng và nỗi sầu muộn cũng vơi đi. Toàn thể gia quyến lớn nhỏ của trưởng giả và những người đến nghe Pháp liền ở tại chỗ ngồi, phá trừ 20 ức kiếp nghiệp tội sanh tử và đắc Quả Nhập Lưu.

Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời rồng, quỷ thần, quốc vương, quần thần, và dân chúng ở tại Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.

Bấy giờ có hai người lãng du kết bạn với nhau. Họ luôn theo sát cận kề như cùng một thân thể không khác. Một hôm hai người bàn luận với nhau và muốn làm Đạo Nhân.

Và thế là họ cùng đi đến chỗ của Phật, đảnh lễ Đức Phật, hai gối quỳ, chắp tay và thưa với Phật rằng:

“[Thưa Thế Tôn!] Chúng con muốn xuất gia làm Đạo Nhân. Kính mong Như Lai cho phép.”

Đức Phật liền thu nhận để trở thành Đạo Nhân, và bảo cùng trú trong một căn phòng. Thế nhưng hai người họ chỉ ở trong phòng nghĩ ngợi về những vinh hoa vui sướng của thế gian. Họ lại cùng nhau ca ngợi về thú vui của thể xác và miêu tả về dáng dấp thùy mị của nữ nhân. Lòng họ bám chặt chẳng buông xả và ý niệm không hề dừng nghỉ. Họ chẳng biết vô thường và sự bất tịnh ô trược của thân thể. Lâu dần tâm họ mắc bệnh do bởi sự khao khát bộc phát. Với tuệ nhãn, Đức Phật biết loạn tưởng của họ đang chạy theo sắc dục và buông thả tâm ý nên chẳng thể giải thoát. Lúc ấy Đức Phật bảo một người trong số họ đi đến nơi khác.

Sau đó Ngài hóa thành người kia, rồi vào phòng và tâm sự với người bạn đồng tu rằng:

“Lòng của chúng ta luôn nghĩ ngợi về sắc dục mà chẳng hề lìa xa. Hay là chúng ta hãy cùng đi xem thân thể của người nữ để biết như thế nào? Còn như ở đây mơ mộng suy tư thì chỉ nhọc nhằn vô ích.”

Và thế là hai người cùng đi đến trong thôn của một dâm nữ nọ. Bấy giờ Đức Phật ở trong thôn ấy hóa làm một dâm nữ.

Khi đã bước vào nhà của dâm nữ, hai người họ nói rằng:

“Chúng tôi là Đạo Nhân, thọ giới cấm của Phật, và không dám vi phạm thân nghiệp. Tuy nhiên ý niệm thì muốn quán sát thân thể của người nữ. Chúng tôi chỉ nhìn ngắm và sẽ giữ đúng quy tắc.”

Hóa dâm nữ liền cởi xâu chuỗi anh lạc và y phục ngát hương, rồi đứng lõa hình. Bấy giờ mùi hôi từ nơi ô uế của dâm nữ bốc ra, thật khó mà có thể đứng gần.

Sau khi hai người họ đã nhìn rõ những chỗ hôi dơ, hóa Đạo Nhân liền bảo người kia rằng:

“Người nữ xinh đẹp là nhờ có son phấn, cài lên hoa thơm, tắm gội nước hương, và mặc quần áo lộng lẫy để che chỗ hôi dơ. Họ thoa dầu thơm và mong muốn người khác nhìn thấy. Thật sự thì cái thân thể tanh hôi đó ví như một cái túi đựng phân vậy. Có gì mà đáng tham luyến?”

Lúc bấy giờ vị hóa Bhikṣu liền nói kệ rằng:

“Nguồn gốc của tham dục
Là do vọng tưởng sanh
Nếu tâm chẳng nghĩ tưởng
Ái dục sẽ không sanh

Ái dục tâm ham muốn
Đâu chỉ năm dục thôi?
Mau lìa tuyệt năm dục
Mới là bậc dũng mãnh

Vô dục sẽ không sợ
Đơn sơ chẳng ưu sầu
Dục trừ kết sử giải
Đó là thoát vực sâu”

Lúc nói kệ xong, Đức Phật liền hiện trở lại quang minh tướng hảo. Khi thấy vậy, vị Bhikṣu sanh lòng hổ thẹn, sám hối lỗi lầm, và cúi đầu đảnh lễ sát đất. Sau khi nghe Phật thuyết Pháp thêm một lần nữa, ngài vui mừng khai ngộ và trở thành bậc Ứng Chân.

Khoảng một lúc sau thì vị Bhikṣu được bảo đến nơi khác trở về.

Khi trông thấy nét mặt của bạn mình vui tươi hơn bình thường nên liền hỏi rằng:

“Tại sao nét mặt của thầy tươi sáng như thế?”

Vị Bhikṣu này kể lại rằng:

“Hôm nay Đức Phật từ bi thương xót đã hóa độ cho mình nên mới được như thế. Nhờ hồng ân của Thế Tôn mà mình được thoát miễn khổ ách.”

Lúc ấy vị Bhikṣu này lại nói kệ rằng:

“Ngày đêm nhớ sắc dục
Rong ruổi ý chẳng dừng
Thấy uế của nữ nhân
Tưởng diệt hết ưu sầu”

Khi nghe bài kệ này xong, vị Bhikṣu đồng tu liền tự tư duy, đoạn diệt dục tưởng, và được Pháp nhãn thanh tịnh.

Thuở xưa Đức Phật dẫn theo các đệ tử đến Tinh xá Mỹ Âm ở trong nước Bất Tĩnh để thuyết Pháp cho hàng trời người, rồng, và quỷ thần.

Vị quốc vương nước đó tên là Xuất Ái. Ngài có vị vương hậu với lòng nhân ái, nổi tiếng thanh cao và trinh khiết. Do đó nhà vua hết mực cung kính và trân quý phẩm đức của vương hậu. Khi nghe tin Phật đến đây giáo hóa chúng sanh, nhà vua ra lệnh chuẩn bị ngựa xe và cùng vương hậu đi đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Đức Phật và lui xuống ngồi ở một bên.

Khi ấy Đức Phật thuyết giảng về khổ, không, vô thường, vô ngã cho quốc vương, vương hậu, và các thể nữ. Ngài lại nói về con người do nhân duyên mà có hợp hội và biệt ly, nỗi khổ của yêu thương chia lìa và nỗi khổ của oán ghét gặp nhau. Con người do làm phước mà sanh lên trời, và do tạo ác mà vào địa ngục. Lúc ấy quốc vương và vương hậu vui mừng tỏ ngộ, thọ trì Năm Giới và xin làm Thanh Tín Sĩ. Sau đó nhà vua và vương hậu đảnh lễ Đức Phật, rồi từ biệt và trở về cung.

Bấy giờ có một Phạm Chí tên là Cát Tinh. Ông sanh được một cô con gái xinh đẹp tuyệt trần và thật hiếm có ở thế gian. Đến năm 16 tuổi, nét đẹp của nàng không ai có thể chê. Do đó Phạm Chí treo một giải thưởng 1.000 lượng vàng suốt 90 ngày để xem có người trí nào, mà có thể chỉ ra khuyết điểm không tốt của con mình thì ông sẽ tặng số vàng đó cho họ. Thế nhưng không một ai dám phê phán cả.

Xem Thêm:   Kinh A Di Đà - Chữ Lớn, Kèm Nghi Thức Tụng Niệm, PDF Tải Về Tụng Niệm

Thời gian trôi qua, con gái của ông dần dần trưởng thành và đến lúc xuất giá. Phạm Chí suy nghĩ là sẽ phải gả cho ai.

“Nếu có ai đoan chánh như con gái của mình thì sẽ gả con gái cho họ. Mình nghe Đạo sư Năng Nhân thuộc dòng tộc Năng Nhân, có thân màu vàng rất hy hữu trên đời. Mình hãy dẫn theo con gái đến đó và gả cho người ấy.”

Ông lập tức dẫn theo con gái đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ và thưa với Phật rằng:

“Ái nữ của tôi rất mỹ lệ và xinh đẹp tuyệt trần. Ái nữ đã đến lúc lấy chồng nhưng chẳng một ai xứng đôi vừa ý. Chỉ có tướng mạo đoan chánh của Đạo sư Năng Nhân mới có thể xứng đôi. Do đó tôi từ xa dẫn theo con gái đến đây và muốn gả cho Thế Tôn.”

Phật bảo Phạm chí Cát Tinh:

“Sự xinh đẹp của con gái ông là điều tốt đẹp của gia đình ông. Còn sự tốt đẹp của Ta là sự tốt đẹp của chư Phật. Sự quan niệm tốt đẹp giữa ông và Ta chẳng giống nhau. Ông tự khen con gái của mình xinh đẹp mỹ lệ, nhưng dưới mắt của Ta thì ví như cái lọ vẽ chứa phân và nước tiểu. Có gì mà đặc biệt chứ? Cái đẹp ở nơi mắt, tai, mũi, miệng là những tên giặc tàn bạo của thân. Khuôn mặt đẹp xinh là mối hiểm họa của thân. Có kẻ hủy diệt gia tộc hoặc giết hại thân quyến, tất cả đều là do sắc đẹp của nam nữ. Ta là một Đạo Nhân, một mình tự do mà còn sợ nguy hiểm. Huống nữa là nhận lấy thêm tai họa từ những tên giặc tàn bạo kia. Ông hãy tự mang trở về đi. Ta không nhận.”

Bấy giờ Phạm Chí nổi sân bỏ đi, rồi đến vương cung của vua Xuất Ái.

Ông hết lòng ca ngợi vẻ đẹp của con gái mình, rồi tâu vua rằng:

“[Tâu đại vương!] Con gái của tôi xứng đáng làm vương phi. Bây giờ ái nữ đã khôn lớn nên tôi muốn dâng lên cho đại vương.”

Khi vừa thấy con gái của Phạm Chí, nhà vua rất vui mừng và tấn phong làm vương phi. Đồng thời thưởng cho Phạm chí Cát Tinh rất nhiều vàng bạc trân bảo và còn phong ông làm phụ thần. Từ đó con gái của Phạm Chí được sủng ái, nhưng bổn tánh rất đố kỵ, chuyên mê hoặc đại vương, và nhiều lần nói gièm pha vương hậu.

Cứ nhiều lần như thế, một hôm nhà vua bực bội quát rằng:

“Con yêu phụ ngươi dám thốt lời vô lễ! Vương hậu là người thanh khiết cao quý mà ngươi cứ gièm pha.”

Với lòng đố kỵ muốn hại vương hậu, con gái của Phạm Chí vẫn nhiều lần lại gièm pha không ngừng, luôn luôn tìm cơ hội và nhà vua dần dần cũng bị mê hoặc.

Khi dò xét được ngày trai giới của vương hậu, cô ta nhân cơ hội mà tâu vua rằng:

“Hôm nay là một ngày tốt để hoan lạc. Xin đại vương hãy gọi vương hậu đến cùng chung vui.”

Nhà vua liền sắc lệnh cho tất cả hậu cung đến dự yến tiệc. Do thọ trì trai giới nên chỉ một mình vương hậu không tuân lệnh. Nhà vua cho gọi đến ba lần nhưng vương hậu đang thọ trì trai giới nên vẫn không đến. Nhà vua nổi cơn thịnh nộ, sai người lôi vương hậu ra khỏi cung, rồi cột ở trước điện và muốn dùng tên bắn chết. Lúc ấy vương hậu chẳng kinh sợ và nhất tâm niệm Phật. Nhà vua đích thân bắn tên nhắm về hướng vương hậu, nhưng dù bắn mấy lần mà các mũi tên đều bay ngược trở lại và rớt ở trước nhà vua.

Nhà vua kinh hoàng, rồi tự tay mở trói cho vương hậu và hỏi rằng:

“Nàng có pháp thuật gì mà khiến các mũi tên bay ngược trở lại như thế?”

Vương hậu tâu rằng:

“Thiếp chỉ phụng sự Như Lai và quy y Tam Bảo. Từ sáng thiếp đã thọ trì trai giới của Phật, quá ngọ không ăn, giữ trọn tám giới, và không trang điểm. Đây chắc chắn là do uy lực của Thế Tôn đã thương xót che chở.”

Nhà vua nói rằng:

“Thật kỳ diệu không thể diễn tả được!”

Lúc ấy nhà vua liền ra lệnh đuổi con gái của Phạm chí Cát Tinh trở về nhà của cha mẹ nàng. Sau đó nhà vua truyền lệnh chuẩn bị ngựa xe, rồi cùng quần thần, vương hậu, thái tử, và hậu cung thể nữ đi đến chỗ của Phật. Khi đến nơi, họ đảnh lễ rồi ngồi xuống và chắp tay nghe Pháp. Sau đó nhà vua hướng về Đức Phật và kể rõ tường tận mọi việc đã xảy ra.

Phật bảo đại vương rằng:

“Yêu nữ mê hoặc có 84 loại tánh nết xấu. Tuy nhiên có tám loại tánh nết cực xấu mà người trí quở trách thậm tệ.

Những gì là tám?

1. đố kỵ
2. giận dữ vô cớ
3. mắng chửi
4. trù ếm
5. dùng bùa ngải thư yếm
6. keo kiệt
7. ưa trang sức diêm dúa
8. ôm lòng độc hại

Đây là tám loại tánh nết cực xấu.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Dù trời mưa bảy báu
Kẻ tham vẫn chưa thỏa
Vui ít đời nhiều khổ
Ai giác làm thánh hiền

Tuy có phước lạc trời
Bậc trí xả chẳng tham
Ân ái chẳng muốn ham
Đó là đệ tử Phật”

Phật bảo đại vương rằng:

“Người đời tạo tội hay phước đều là do bổn tánh của mỗi người. Cho nên quả báo lãnh thọ của họ rất khác xa muôn phần. Nếu ai có thể tu hành Phật Pháp, ăn chay trì giới, và làm nhiều việc phước lành thì sẽ được chư Phật ngợi khen. Sau khi mạng chung, họ sẽ sanh lên cõi Phạm Thiên để thọ hưởng phước lạc tự nhiên.”

Khi Phật nói lời ấy xong, nhà vua cùng quần thần, vương hậu và hậu cung thể nữ, tất cả đều tỏ ngộ và thấy dấu Đạo.

Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời rồng, quỷ thần, quốc vương, và nhân dân ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.

Vào một buổi sáng sớm nọ, có một vị Bhikṣu trẻ tuổi đắp y cầm bát, và mang theo tích trượng đi vào thôn trang khất thực.

Khi ấy ở gần cạnh đại lộ có một vườn rau của một vị quan và có trồng những cây kê. Ở phía ngoài khu vườn có cỏ bao bọc và thiết bị những cơ quan cung tiễn. Nếu có dã thú hay đạo tặc tiến vào mà chạm trúng cơ quan thì sẽ bị tên bắn chết ngay. Đương thời chỉ có một thiếu nữ trông giữ khu vườn này. Như có ai muốn đến khu vườn kia, họ từ xa gọi lớn và sẽ được cô gái chỉ đường thì mới có thể vào. Còn những ai không biết đường mà tùy tiện xông vào thì chắc chắn sẽ bị tên bắn chết. Khi ấy cô thiếu nữ này một mình trông giữ khu vườn và cất lên tiếng hát. Giọng hát ngọt ngào của cô khiến người qua đường không ai là chẳng dừng xe xuống ngựa để nghe. Âm thanh quyến rũ đến nỗi dù họ đã miễn cưỡng bước đi, nhưng cũng bồi hồi trở lại và ngồi xuống lắng nghe.

Bấy giờ có một vị Bhikṣu trên đường khất thực trở về. Giữa đường chợt nghe tiếng hát qua tai, khiến tình thức năm căn của ngài say đắm, tâm ý mê loạn và lưu luyến chẳng rời. Ngài suy nghĩ về người con gái này chắc phải rất xinh đẹp, và mơ tưởng muốn gặp mặt để chuyện trò. Và thế là ngài liền đi về hướng khu vườn. Giữa lúc còn chưa đến, cõi lòng của ngài hoảng hốt mê mang, làm rơi tích trượng với bát trên tay, và Pháp y khoác trên vai tuột xuống hồi nào cũng chẳng hay. Với trí tuệ của Ba Minh, Đức Phật nhìn thấy nếu vị Bhikṣu này tiến thêm vài bước nữa thì sẽ bị tên bắn chết. Biết được phước đức nhân duyên sắp đắc Đạo và ngài chỉ nhất thời bị ái dục si mê che lấp, Đức Phật xót thương cho sự ngu muội và muốn độ thoát ông ấy.

Thế nên Đức Phật liền tự hóa thành một cư sĩ bạch y, rồi đi đến bên cạnh của vị Bhikṣu và dùng kệ quở trách rằng:

“Đạo Nhân tu Pháp gì?
Nếu ý không chế phục
Từng bước nhiễm trần lao
Chỉ chạy theo tư tưởng

Pháp y khoác trên vai
Làm ác chẳng ngừng nghỉ
Ai luôn làm điều ác
Khi chết đọa địa ngục

Ra khỏi dòng ái dục
Nhiếp tâm trừ dục vọng
Phàm phu chẳng đoạn dục
Tâm ý mãi rong ruổi

Tu hành chớ làm ác
Tinh tấn tự điều tâm
Xuất gia mà lười biếng
Ý nhiễm lại khởi sanh

Tu hành mà lười biếng
Nhọc tâm chẳng trừ khổ
Không phải là tịnh hạnh
Làm sao được báu lớn?

Buông lung, khó răn bảo
Như gió thổi héo cây
Tự làm tự lãnh thọ
Sao lại chẳng tinh tấn?”

Khi nói những bài kệ này xong, Đức Phật hiện lại thân tướng sáng chói, ánh sáng chiếu khắp đất trời. Nếu có ai trông thấy, tâm mê loạn giải trừ và liền khôi phục bổn tánh. Khi vị Bhikṣu thấy Phật, tâm ý bỗng nhiên khai mở, như trong tối nhìn thấy ánh sáng. Ngài lập tức đảnh lễ sát đất, cúi đầu sám hối lỗi lầm, nội tâm liễu giải Chỉ Quán, và liền đắc Đạo Ứng Chân, rồi sau đó theo Phật trở về tinh xá. Lúc ấy có vô số người đến nghe Pháp cũng đều được Pháp nhãn thanh tịnh.

Thuở xưa ở nước Tư-ha-điệp có một ngọn núi rất lớn, tên là Tư-hưu-già-tha. Ở trong núi có hơn 500 Phạm Chí đang tu Đạo và ai nấy đều đắc thần thông.

Họ tự nói với nhau rằng:

“Sự chứng đắc của chúng ta chính là tịch diệt.”

Bấy giờ Đức Phật mới vừa xuất hiện ở thế gian để thổi trống Pháp và khai mở cửa cam lộ. Tuy các Phạm Chí này đều nghe có Phật nhưng không ai đến thân cận. Biết phước đức ở đời trước của họ đáng được hóa độ nên Đức Phật một mình đi đến nơi kia. Khi tới con đường ra vào núi, Đức Phật ngồi ở dưới một gốc cây, nhiếp ý vào chánh định, và thân phóng quang minh chiếu khắp cả núi. Ánh sáng đó tựa như rừng lửa và cảnh tượng như khắp núi rừng bị đốt sạch. Các Phạm Chí kinh hoàng và đọc chú vào nước để muốn dập tắt. Dù đã dùng hết thần lực mà vẫn không thể diệt trừ, nên họ kinh hãi bỏ chạy. Từ con đường xuống núi, họ từ xa trông thấy Thế Tôn đang tọa thiền ở dưới gốc cây, ví như mặt trời mọc ở bên cạnh một hòn núi vàng, tướng hảo rực rỡ như mặt trăng ở giữa các vì sao. Họ kinh ngạc không biết là vị thần nào nên vội đến xem. Khi ấy Đức Phật bảo họ hãy ngồi xuống và hỏi từ đâu đến đây.

Các Phạm Chí đáp rằng:

“Từ lâu chúng tôi đã ở trong núi này tu Đạo. Bỗng vào sáng sớm hôm nay có lửa bốc cháy và thiêu đốt tất cả cây cối trong núi, nên chúng tôi sợ hãi bỏ chạy ra ngoài.”

Phật bảo các Phạm Chí:

“Đây là phước hỏa. Nó sẽ không tổn thương người, và còn có thể diệt trừ si mê trần cấu của các ông.”

Các thầy trò Phạm Chí nhìn ngơ ngác và bảo nhau rằng:

“Đây là người tu Đạo gì mà trong 96 nhóm đạo thuật, mình chưa từng thấy qua?”

Có một vị thầy Phạm Chí nói rằng:

“Ta từng nghe vua Tịnh Phạn có một thái tử tên là Nhất Thiết Nghĩa Thành, không tham luyến vương vị mà xuất gia cầu Đạo. Chắc đây là Ngài đó.”

Các đệ tử thưa với thầy rằng:

“Vậy thì chúng ta hãy cùng hỏi Phật về những sự tu hành của Phạm Chí có thật đúng như Pháp chăng?”

Các thầy trò Phạm Chí đồng thưa với Phật rằng:

“Kinh pháp của Phạm Chí được xưng là bốn bộ minh luận vô ngại, bao gồm thiên văn địa lý, phương pháp quốc vương cai trị và thống lãnh dân chúng. 96 nhóm đạo thuật đều nương theo đó tu hành. Kinh này có phải là Pháp tịch diệt chăng? Xin Phật hãy khai thị và giảng giải để chúng tôi được nghe.”

Phật bảo các Phạm Chí:

“Hãy lắng nghe và khéo tư duy! Từ vô số kiếp ở đời trước, ta thường tu hành các loại kinh thư đó và cũng đắc năm loại thần thông, có thể dời non và làm nước ngừng chảy. Tuy đã trải qua vô số lần sanh tử mà vẫn không đạt đến tịch diệt, và cũng chưa từng nghe có ai tu pháp đó mà đắc Đạo cả. Những sự tu hành của các ông không phải là tịnh hạnh.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn nói kệ rằng:

“Ra khỏi dòng ái dục
Vô dục như Phạm Thiên
Các hành đã trừ sạch
Mới là bậc tịnh hạnh

Chỉ Quán khéo tu hành
Thanh tịnh chẳng cấu uế
Đoạn trừ ái dục siết
Mới là bậc tịnh hạnh

Chẳng phải ai bện tóc
Gọi là bậc tịnh hạnh
Chân thành tu tập Pháp
Thanh tịnh làm thánh hiền

Bện tóc nhưng vô trí
Áo cỏ mặc phô trương
Bên trong chẳng lìa nhiễm
Ngoài xả có ích gì?

Diệt trừ tham sân si
Kiêu mạn các việc ác
Như rắn lột thay da
Mới là bậc tịnh hạnh

Đoạn tuyệt chuyện thế sự
Không thốt lời ác ôn
Quán sát Tám Chánh Đạo
Mới là bậc tịnh hạnh

Ân ái đã đoạn trừ
Xuất gia lìa ái dục
Ái dục nếu trừ sạch
Mới là bậc tịnh hạnh

Lìa xa chốn đông người
Không tham hưởng phước trời
Chẳng nương các nơi đó
Mới là bậc tịnh hạnh

Tự biết việc đời trước
Vốn từ nơi nào đến
Tận trừ gốc sanh tử
Thông triệt Đạo huyền thâm
Chiếu sáng như Năng Nhân
Mới là bậc tịnh hạnh”

Khi nói kệ xong, Đức Phật bảo các Phạm Chí rằng:

“Các ông cho rằng những sự tu hành của mình đã đạt đến tịch diệt. Kỳ thật việc ấy, như cá đang thiếu nước. Thử hỏi có gì vui? Sanh mạng vốn vô thường, hãy nỗ lực tinh tấn tu hành!”

Khi nghe lời Phật dạy, trong lòng của các Phạm Chí vui mừng hớn hở, rồi quỳ hai gối và thưa với Phật rằng:

“[Thưa Thế Tôn!] Chúng con muốn xin làm đệ tử của Ngài.”

Lúc đó, tóc trên đầu của các Phạm Chí tự rụng và liền trở thành Đạo Nhân. Do bởi sự tu hành thanh tịnh của họ bao năm qua nên tất cả liền đắc Đạo Ứng Chân. Bấy giờ hàng trời rồng và quỷ thần đang nghe Pháp cũng đều thấy dấu Đạo.

Thuở xưa Đức Phật cùng với 1.250 vị Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá.

Bấy giờ vua của nước Thiện Thắng tên là Vị Sanh Oán, thống lãnh 500 nước. Mỗi nước đều có tên gọi riêng. Ở gần của nước Thiện Thắng có một quốc gia không chịu thần phục, tên là Tăng Thắng.

Do đó vua Vị Sanh Oán muốn đến chinh phạt nên liền triệu tập quần thần và nói rằng:

“Nhân dân của nước Tăng Thắng giàu sang thịnh vượng và trong nước sản xuất nhiều trân bảo. Bởi vậy mà họ chẳng chịu thần phục trẫm. Các khanh nghĩ có nên khởi binh đến chinh phạt chăng?”

Đương thời trong nước có vị thừa tướng trung thành, tên là Vũ Xá, tâu rằng:

“[Tâu đại vương!] Có thể lắm!”

Nhà vua bảo Thừa tướng Vũ Xá rằng:

“Đức Phật đang ở cách đây không xa. Với Ba Minh thông triệt của bậc thánh, không việc gì mà chẳng rõ. Khanh hãy mang lời của trẫm đến chỗ của Phật và thưa hỏi rằng, nếu khởi binh đến chinh phạt thì sẽ được thắng lợi chăng?”

Thừa tướng Vũ Xá tuân mệnh. Ông lập tức chuẩn bị xe ngựa để đi đến tinh xá. Khi đến ở trước Phật, thừa tướng cúi đầu sát đất và đảnh lễ Phật. Lúc ấy Đức Phật bảo ông hãy ngồi xuống.

Khi thừa tướng đã ngồi xuống, Phật hỏi rằng:

“Ông từ đâu đến?”

Thừa tướng thưa rằng:

“[Thưa Thế Tôn!] Đại vương sai con đến lễ bái Đức Phật và thăm hỏi Thế Tôn đi đứng và ăn uống có được như ý chăng?”

Phật hỏi thừa tướng:

“Đại vương, quần thần, và nhân dân trong nước đều được bình an chứ?”

Thừa tướng thưa rằng:

“[Thưa Thế Tôn!] Nhờ hồng ân của Phật, đại vương và thần dân thảy đều bình an.”

Sau đó thừa tướng bạch Phật rằng:

“[Bạch Thế Tôn!] Đại vương và nước Tăng Thắng có hiềm khích. Đại vương muốn khởi binh đến chinh phạt. Chẳng hay thánh ý của Phật như thế nào? Có thể thắng không?”

Phật bảo thừa tướng:

“Nhân dân của nước Tăng Thắng phụng hành bảy Pháp nên không thể thắng họ. Ông hãy chuyển lời đến đại vương, hãy đắn đo suy nghĩ và chớ vội hành động.”

Thừa tướng bạch Phật rằng:

“[Bạch Thế Tôn!] Bảy Pháp đó là những gì?”

Đức Phật bảo:

“Nhân dân của nước Tăng Thắng luôn cùng tụ hội, diễn giảng Chánh Pháp, tự mình tu phước đức, và cho đó là việc đương nhiên. Đây là thứ nhất.

Quốc vương, quần thần, và nhân dân của nước Tăng Thắng luôn hòa thuận, bậc trung lương lãnh đạo, quân vương tiếp nhận lời can gián của quần thần, và không chống đối lẫn nhau. Đây là thứ nhì.

Nhân dân của nước Tăng Thắng đều tuân thủ pháp luật, không trộm cắp, không dám phạm tội, và trên dưới một mực tuân thủ. Đây là thứ ba.

Nhân dân của nước Tăng Thắng kính trọng lễ nghĩa, trai gái giữ đúng luân lý, già trẻ kính trọng lẫn nhau, và không mất lễ nghi. Đây là thứ tư.

Nhân dân của nước Tăng Thắng hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính sư trưởng, tiếp thọ giáo huấn, và xem đó là phép tắc của quốc gia. Đây là thứ năm.

Nhân dân của nước Tăng Thắng thuận theo đạo lý của thiên địa, kính trọng thần linh, tùy thuận bốn mùa và chăm lo nông nghiệp. Đây là thứ sáu.

Nhân dân của nước Tăng Thắng tôn kính Đạo đức, trong nước có những vị đắc Đạo Ứng Chân, và cũng hoan hỷ cúng dường y phục, giường nệm, ẩm thực, và thuốc thang cho các vị Đạo Nhân từ phương xa đến. Đây là thứ bảy.

Xem Thêm:   Kinh Diệu Cát Tường Bồ-tát Thuyết Giảng Đại Trí Độ ♦ Quyển hạ

Quốc vương, quần thần, và nhân dân của bất kỳ quốc gia nào thực hành bảy Pháp này thì nước của họ sẽ không thể gặp nguy hiểm. Dù có tập hợp quân binh khắp thiên hạ để cùng đến tấn công nước họ thì cũng không thể thắng.”

Phật bảo thừa tướng:

“Giả sử nhân dân của nước Tăng Thắng chỉ hành trì một Pháp thì còn không thể tấn công. Hà huống là họ đã hành trì hết bảy Pháp như vậy.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Thắng lợi chưa đủ nhờ
Tuy thắng vẫn còn khổ
Hãy tự cầu thắng Pháp
Đã thắng chẳng còn sanh”

Khi nghe kệ của Phật, Thừa tướng Vũ Xá liền thấy dấu Đạo. Bấy giờ tất cả kẻ lớn người nhỏ trong chúng hội đều đắc Quả Nhập Lưu.

Lúc ấy thừa tướng liền từ chỗ ngồi đứng dậy và thưa với Phật rằng:

“[Thưa Thế Tôn!] Do việc nước bề bộn, con muốn xin phép cáo lui trở về.”

Đức Phật bảo:

“Lành thay! Nên biết bây giờ chính là lúc.”

Thừa tướng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Đức Phật rồi cáo lui. Sau khi về nước, ông trình tâu đầy đủ cho quốc vương. Do đó vua Vị Sanh Oán liền đình chỉ việc khởi binh và nghiêm trì lời Phật dạy. Sau đó dân chúng của nước Tăng Thắng cũng nghe được lời dạy của Phật cho Thừa tướng Vũ Xá nên họ cũng đến thần phục nước Thiện Thắng. Bấy giờ mọi người trong quốc gia của họ trên dưới đồng lòng và đất nước hưng thịnh thái bình.

Thuở xưa Đức Phật rộng thuyết diệu Pháp cho hàng trời, quốc vương, đại thần, và dân chúng ở Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức.

Bấy giờ có một Phạm Chí trưởng giả giàu sang vô cùng và nhà ông ở cạnh đại lộ. Ông chỉ có một đứa con trai duy nhất. Khi thiếu gia vừa tròn 20 tuổi, trưởng giả liền cưới vợ cho con.

Đôi tân lang và tân nương quấn quýt bên nhau, âu yếm ngọt ngào, và trong lúc còn chưa hết bảy ngày thì một hôm cô vợ nói với chồng rằng:

“Em muốn đến sau vườn ngắm cảnh, có được không anh?”

Tiết trời mới vào xuân, đôi vợ chồng son dẫn nhau đến hậu viên. Trong vườn có một cây nại cao lớn đang nở hoa rất đẹp. Cô vợ muốn hái hoa nhưng không có ai hái giùm. Anh chồng biết ý vợ nên liền leo lên cây hái hoa. Khi vừa hái được một đóa hoa, anh ta lại muốn hái thêm một đóa nữa. Cứ leo mãi như thế cho tới khi đến chỗ của cành cây nhỏ, bất chợt cành cây bị gãy, anh chồng rơi xuống đất và lập tức tử thương. Lúc ấy tất cả kẻ lớn người nhỏ trong nhà bôn ba chạy đến. Họ kêu trời than đất, khóc thương đến tắt thở rồi dần dần tỉnh lại. Thân quyến nội ngoại đến chia buồn và ai nấy ngậm ngùi đau xót. Còn những người đến xem, không ai là chẳng thương cảm. Cha mẹ và nàng dâu oán trời trách đất sao đã không che chở bảo hộ. Sau đó họ liệm xác và đưa đi mai táng đúng như tục lệ. Khi đã trở về nhà, họ lại khóc than đến chẳng thể tự kiềm chế bản thân.

Bấy giờ Thế Tôn thương xót cho sự ngu muội của họ nên đến thăm hỏi. Khi thấy Phật, toàn thể kẻ lớn người nhỏ của gia đình trưởng giả bi cảm nghẹn ngào, đảnh lễ, và kể lại tường tận câu chuyện đau lòng.

Phật bảo trưởng giả:

“Ông hãy tạm nén cơn đau mà nghe Ta thuyết Pháp. Vạn vật vô thường và chẳng thể bảo hộ lâu dài. Có sanh ắt phải chết, và tội phước luôn theo sát. Cha mẹ của đứa con này hiện đang ở ba nơi đều ngậm ngùi khóc than và buồn bã khôn nguôi, nhưng cũng không thể làm nó sống lại. Cho cùng đứa con này là của ai? Ai là người thân của nó?”

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Mạng như trái tự chín
Luôn sợ bị rụng xuống
Có sanh ắt phải chết
Ai nào thoát miễn đâu?

Từ xưa thích ân ái
Do ái thọ bào thai
Mạng sống như điện chớp
Ngày đêm trôi chẳng ngừng

Thân là vật của chết
Thần thức vô hình tướng
Giả như chết rồi sanh
Tội phước vẫn chẳng mất

Thỉ chung đâu một đời
Do si ái dài lâu
Tự mình thọ vui khổ
Thân chết thức chẳng diệt”

Khi trưởng giả nghe kệ, trong lòng tỏ ngộ và nỗi buồn vơi đi, rồi quỳ hai gối và bạch Phật rằng:

“[Bạch Thế Tôn!] Đứa con này đã tạo nghiệp tội gì ở đời trước, mà nay đang sống an vui lại bỗng nhiên bị chết yểu như thế? Kính mong Thế Tôn hãy nói về nghiệp tội thuở xưa của nó.”

Phật bảo trưởng giả:

“Vào thuở xưa có một đứa bé cầm cung tên đến một cây thần để chơi, và ở cạnh nơi đó cũng có ba người. Bấy giờ ở trên cây có một con chim sẻ và đứa trẻ chuẩn bị bắn nó.

Khi ấy ba người kia cổ vũ rằng:

“Nếu có thể bắn được con chim sẻ thì mới gọi là tài giỏi.”

Đứa trẻ khoái ý giương cung bắn. Chim sẻ trúng tên liền rơi xuống đất chết ngay. Lúc đó ba người kia đều vui cười ủng hộ, rồi bỏ đi ra về.

Trải qua vô số kiếp, ba người họ thường tao ngộ quả báo giống nhau. Một người có phước, nay hiện ở trên trời. Một người hóa sanh làm long vương ở trong biển. Còn một người nữa, hiện tại chính là trưởng giả ông đây. Ở đời trước, đứa trẻ này sanh làm con của vị trời kia. Sau khi mạng chung, nó sanh xuống nhân gian làm con của trưởng giả. Sau khi rớt cây té chết, nó liền hóa sanh làm con của vua rồng ở trong biển. Vào ngày sanh ra, nó bị một con kim sí điểu chúa sanh ra từ biến hóa bắt lấy ăn thịt.

Hiện giờ ở ba nơi đều buồn bã khóc lóc. Thật xót thương chẳng thể nói thành lời! Do ở đời trước thấy kẻ khác giết hại mà vui mừng theo, nên ba người họ nay phải gào khóc của báo ứng.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Thần thức tạo ba cõi
Lành dữ ở năm đường
Âm thầm lặng lẽ tới
Nơi đến như âm vang

Cõi dục, sắc, vô sắc
Đều do nhân đời trước
Như bóng hiện theo hình
Báo ứng tự nhiên đến”

Khi nói kệ xong, Đức Phật vì muốn khiến tâm ý của trưởng giả liễu giải nên liền dùng Đạo lực chỉ cho thấy chuyện đời trước của ông, và cũng như việc mới xảy ra của đứa bé này ở trên trời và long cung.

Khi ấy trong lòng của trưởng giả vui mừng tỏ ngộ, liền đứng dậy, hai gối quỳ, chắp tay và thưa với Phật rằng:

“[Thưa Thế Tôn!] Nay con cùng mọi người trong gia tộc muốn làm đệ tử của Phật, thọ trì Năm Giới, và xin làm Thanh Tín Sĩ.”

Đức Phật liền truyền thọ Năm Giới, rồi lại thuyết Pháp về ý nghĩa của vô thường thêm một lần nữa. Khi ấy mọi người hân hoan và đều đắc Quả Nhập Lưu.

Thuở xưa có một vị quốc vương dùng Chánh Pháp trị nước và được nhân dân kính ngưỡng. Tuy nhiên ngài không có con nối ngôi nên rất buồn bã.

Bấy giờ Đức Phật đến nước đó giáo hóa. Nhà vua liền xuất cung để thân cận Thế Tôn. Sau khi nghe Pháp, nhà vua rất vui mừng, liền xin thọ Năm Giới, nhất tâm phụng kính Phật và chỉ hy vọng sanh một thái tử. Ngày đêm ba thời, nhà vua tinh tấn hành Đạo không biếng lười.

Khi ấy nhà vua có một tiểu đồng luôn theo hầu hạ, khoảng 11 tuổi. Cậu bé tận trung vua, biết phép tắc lễ nghi, khiêm tốn nhẫn nhục, và tín tâm phụng trì Phật Pháp. Mỗi buổi sáng thức dậy, cậu bé thắp hương và nhất tâm tinh tấn học tụng Kinh kệ. Trải qua nhiều năm tinh tấn như thế mà chẳng hề than khổ nhọc.

Một hôm cậu bé bỗng hốt nhiên lâm trọng bệnh và liền mạng chung. Sau đó thần thức của cậu ta trở lại sanh làm con của nhà vua. Tiểu vương tử được chăm lo cho bú và dần dần khôn lớn. Đến năm 15 tuổi thì được vua cha lập làm thái tử. Sau khi phụ vương băng hà, thái tử được tôn lên làm vua. Thế nhưng bổn tánh của tân vương kiêu ngạo tự đại, hoang dâm vô đạo, ngày đêm chỉ thích vui chơi, chẳng màng quốc sự, và bỏ bê triều chính nên khiến dân chúng lầm than.

Đức Phật biết rõ sự tu hành của vị vua trẻ tuổi này, nhưng còn ngài thì chẳng biết chuyện đời trước của mình. Do đó Thế Tôn dẫn theo các đệ tử đi đến nước kia. Khi hay tin Phật đang đến, nhà vua cũng y như thông lệ của tiên vương và cùng đoàn tùy tùng xuất cung nghênh tiếp. Nhà vua cúi đầu đảnh lễ sát đất và ngồi qua một bên.

Bấy giờ Phật hỏi nhà vua rằng:

“Vương quốc, nhân dân, và quần thần bách quan đều bình an chứ?”

Nhà vua thưa rằng:

“[Thưa Thế Tôn!] Con là một vị vua trẻ tuổi nên chưa có thể cai quản triều chính. May nhờ hồng ân của Phật nên đất nước vẫn ổn.”

Phật hỏi nhà vua rằng:

“Nay đại vương có biết mình từ đâu đến và đã làm phước đức gì mà được ngôi vua chăng?”

Nhà vua thưa rằng:

“Dạ không, thưa Thế Tôn! Con ngu muội vô tri và không biết đời trước từ đâu đến.”

Phật bảo đại vương:

“Đại vương vốn đã làm năm việc nên mới được làm vua. Những gì là năm?

1. Do bố thí nên mới được làm vua, được muôn dân phụng hiến cung điện lầu các và có tài bảo vô số.

2. Do xây dựng tự viện, cúng dường giường nệm với tràng phan cho Tam Bảo, nên mới được làm vua và ngồi ở chánh điện để xử lý quốc sự.

3. Do tôn kính Tam Bảo cùng thân cận các bậc trưởng lão đức hạnh, nên mới được làm vua và được tất cả muôn dân, không ai là chẳng lễ kính.

4. Do gìn giữ ba nghiệp của thân, bốn nghiệp của lời nói và trong lòng chẳng khởi điều ác, nên mới được làm vua–khi mọi người nhìn thấy, không ai là chẳng hân hoan.

5. Do siêng học vấn để tăng trưởng trí tuệ nên mới được làm vua, có thể xử lý quốc sự một cách chính xác và không ai là chẳng khâm phục.

Phàm ai tu hành năm việc này thì đời đời sẽ được làm vua.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn nói kệ rằng:

“Ai biết phụng bậc trên
Đạo Nhân, vua, cha, thầy
Tín, giới, thí, văn, tuệ
Trọn đời mãi bình an

Đời trước tu phước đức
Khi sanh đã tôn quý
Lấy Đạo an thiên hạ
Trì Pháp người kính theo

Vua là chủ muôn dân
Luôn ban lòng từ ái
Đích thân trì Kinh giới
Dạy bảo điều đúng sai

Khi an chẳng quên nguy
Lo xa phước chuyển tăng
Báo ứng của phước đức
Chẳng kể sang với hèn”

Phật bảo nhà vua:

“Ở đời trước, đại vương là một tiểu đồng theo hầu hạ cho tiên vương. Cậu bé rất tín tâm phụng Phật, thanh tịnh phụng Pháp, thành kính phụng Tăng, hiếu thuận song thân, và tận trung với vua. Cậu bé luôn tu hành tinh tấn, siêng làm bố thí, và dù thân tâm chịu khổ nhọc cũng chẳng lười biếng. Do phước báo ứng hiện nên được làm vương tử và nối ngôi vua tôn quý.

Thế nhưng nay đại vương đã có được phú quý vinh hoa thì lại lười biếng. Phàm là chủ của một nước thì hãy thực hành năm việc.

Những gì là năm?

1. Thống lãnh muôn dân và không lạm dụng hình phạt.
2. Nuôi dưỡng tướng sĩ và tùy thời ban thưởng.
3. Nhớ tu việc lành thì phước đức sẽ không dứt mất.
4. Tín nhiệm trung thần, tiếp nhận lời khuyên can chánh trực và không nghe lời sàm tấu.
5. Tiết chế dục lạc và tâm chẳng buông lung.

Nếu quốc vương nào thực hành năm việc này thì tiếng thơm vang khắp bốn biển và phước lộc tự nhiên đến. Còn như lìa bỏ năm việc này, kinh tế sẽ chẳng phát triển, nhân dân khốn khổ sẽ sanh bạo loạn, sĩ phu lao nhọc sẽ làm quốc gia suy yếu, và do chẳng có phước đức nên quỷ thần không trợ giúp. Họ tự đánh mất điều lợi ích to lớn, trung thần chẳng dám khuyên can, tâm buông lung phế bỏ việc nước và khiến nhân dân than oán. Nếu ai như thế thì hiện đời mang tiếng xấu và sau khi chết sẽ không có phước báo.

Lúc bấy giờ Thế lại nói kệ rằng:

“Chúa lãnh của thế gian
Tu thiện chẳng xảo ngụy
Điều tâm thắng tà ác
Như thế là minh quân

Chánh kiến khéo thí huệ
Nhân ái khéo lợi người
Lợi ích chia đồng đều
Như thế người cậy trông”

Khi Phật nói kệ xong, nhà vua vô cùng hoan hỷ, rồi đứng dậy đi đến trước Phật, cúi đầu đảnh lễ sát đất, sám hối tạ ơn Phật, và xin thọ Năm Giới. Bấy giờ Đức Phật thuyết Pháp thêm một lần nữa và nhà vua đắc Quả Nhập Lưu.

Thuở xưa Đức Phật ở tại Tinh xá Kỳ Viên gần thành Phong Đức để thuyết vô lượng đại Pháp cho hàng trời người, quốc vương, đại thần, và bốn chúng đệ tử.

Về hướng nam của thành Phong Đức vào thời ấy, có một khu rừng sâu và trong đó thường hay có voi hoang ra vào. Trong đàn voi có con màu trắng, xanh hoặc đen. Khi ấy nhà vua vì muốn có được những con voi lớn uy mãnh để dùng chiến đấu, nên liền sai người đến đó bắt chúng về, rồi giao cho những người huấn luyện voi. Trong vòng ba năm được huấn luyện, chúng có thể dùng để cưỡi và cũng có thể đưa đi chiến đấu.

Đương thời có một con voi thần được sanh ra từ loài rồng. Thân voi trắng như tuyết, đuôi có màu đỏ, và hai ngà màu vàng.

Khi những thợ săn thấy nó, họ biết là một con voi đặc biệt phi thường nên trở về bẩm cáo quốc vương:

“[Tâu đại vương!] Có một con voi với hình dáng như thế, thật xứng đáng để cho đại vương cưỡi.”

Nhà vua lập tức chiêu mộ hơn 30 tượng sư và sai đi bắt con voi này. Và thế là đoàn người bắt voi đi đến chỗ ở của voi, rồi giăng lưới muốn bắt nó. Tuy nhiên nó là một con voi thần nên đã sớm biết ý định của họ. Nó liền tự động đến trước và cố ý sa lưới. Lúc ấy mọi người đều hăm hở đến bắt nó. Voi liền phẫn nộ và nhảy lên giẫm đạp họ. Kẻ nào ở gần thì bị nó đạp chết. Còn những kẻ ở xa thì bỏ chạy và bị voi truy đuổi chẳng tha.

Bấy giờ ở cạnh sườn núi có những vị Đạo Nhân trẻ tuổi, thân thể cường tráng và lực lưỡng. Họ vào rừng học Đạo đã lâu mà ý vẫn chưa định. Từ xa trông thấy con voi này đang truy giết người, các Đạo Nhân thương xót và cũng ỷ rằng mình mạnh khỏe nên muốn đến cứu họ.

Đức Phật đã từ xa trông thấy và sợ các vị Bhikṣu này sẽ bị voi thần giết chết, nên Ngài liền đến nơi đó và phóng đại quang minh. Khi thấy hào quang của Phật, voi thần nguôi đi cơn giận và không còn truy sát người nữa. Khi thấy Phật, các vị Bhikṣu nghênh tiếp và đảnh lễ.

Phật liền nói kệ cho các vị Bhikṣu rằng:

“Chớ quấy nhiễu voi thần
Mà chuốc phải khổ đau
Ác ý sẽ giết mình
Chết không đến nơi lành”

Khi nghe kệ xong, các vị Bhikṣu liền cúi đầu, cầu xin sám hối, và trong lòng tự trách. Họ tư duy sâu xa về việc làm chẳng đúng của mình, và liền đắc Đạo Ứng Chân ở trước Phật. Còn những kẻ bắt voi bỏ chạy và may mắn sống sót, họ quay trở lại nghe Pháp và đều thấy dấu Đạo.

Thuở xưa Đức Phật ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá. Đương thời vua Ảnh Thắng có một đại thần, nhân bởi phạm pháp nên bị miễn chức và lưu đày đến một vùng núi ở hướng nam, cách kinh đô khoảng 1.000 dặm. Do xưa nay chẳng có ai đến khai khẩn nên vùng đất này không có ngũ cốc mọc lên. Kể từ khi ông đại thần kia đến trong núi thì mới có nguồn nước suối chảy tràn đầy và ngũ cốc chín rộ. Từ đó, những người nghèo khổ của các nước xung quanh đều đến trong núi. Trải qua nhiều năm thì có khoảng 3.000 đến 4.000 gia đình cư trú. Những người mới đến đều được cấp cho ruộng đất để sinh sống.

Bấy giờ ở đó có ba vị bô lão lớn tuổi cùng bàn luận rằng:

“Đất nước không vua sẽ như cái xác không đầu.”

Và thế là họ cùng nhau đến chỗ của vị đại thần và tôn ông ta làm vua.

Đại thần nói với các bô lão:

“Nếu tôn tôi lên làm vua thì phải đúng như phép tắc của các nước khác, phải có đại thần tả hữu và văn võ tướng sĩ, trên dưới hầu triều chỉnh tề, tuyển đồng nữ làm cung phi, và ban hành luật thu thuế cho mọi ngành nghề.”

Các bô lão nói rằng:

“Xin phụng mệnh, tất cả sẽ như vương pháp.”

Họ liền lập ông ta lên làm vua, tuyển cử quần thần và văn võ bách quan, rồi điều động nhân dân để xây cung điện lầu các. Do đó nhân dân bị khốn khổ. Họ không thể chịu đựng nổi nữa và đều nghĩ muốn lật đổ nhà vua. Trong một dịp nọ, các gian thần dẫn nhà vua đến một cái đầm hoang dã, cách thành khoảng 30 đến 40 dặm để săn bắn, rồi bắt trói nhà vua và định giết.

Nhà vua hỏi quần thần tả hữu rằng:

“Sao lại muốn giết trẫm?”

Xem Thêm:   Kinh Từ Thị Bồ-tát Thành Phật

Đáp rằng:

“Nhân dân cơm no áo ấm thì mới phụng kính quốc vương. Nhưng nay dân chúng lầm than, lòng dân nổi loạn và đều muốn tạo phản.”

Nhà vua nói rằng:

“Đây vốn là lỗi của các người chứ đâu phải lỗi của ta. Nếu giết oan cho ta thì thần linh sẽ hay biết. Xin hãy đợi cho ta phát một lời nguyện, dù có chết cũng không ân hận.”

Liền nguyện rằng:

“Xưa ta vốn đến đây để khai hoang, trồng ngũ cốc và nuôi dưỡng những kẻ bần khổ. Mọi người đến đây đều được ấm no và giàu sang thịnh vượng. Họ tự nguyện đồng tôn ta làm vua, rồi chiếu theo phép tắc của các nước khác mà cũng làm y như thế. Nay họ làm phản và muốn giết ta. Ta thật chẳng làm điều gì tàn ác đối với nhân dân. Nếu ta chết đi, ta nguyện sẽ làm quỷ bạo ác và nhập trở lại trong thân cũ để báo oán thù này!”

Sau đó nhà vua bị chúng gian thần siết cổ chết. Chúng bỏ tử thi ở đó rồi đi. Ba ngày sau, thần hồn của nhà vua nhập trở lại trong thân xác cũ và biến thành quỷ bạo ác, tự gọi là Khoáng Dã. Nó liền vào cung xiết chết tân vương và hậu cung thể nữ; chúng gian thần tả hữu đều bị giết sạch. Giữa cơn phẫn nộ, quỷ bạo ác còn muốn xuất cung và định giết hết dân chúng.

Bấy giờ ba vị quốc lão ở trong nước tự trói mình bằng dây cỏ, rồi tiến về hướng của quỷ bạo ác và tự thỉnh tội rằng:

“Đây đều do bọn gian thần làm ra. Lê dân bách tánh hoàn toàn chẳng biết. Cúi mong ngài tha thứ và xin hãy trở về để xử lý quốc sự!”

Đáp rằng:

“Ta là quỷ bạo ác. Sao có thể sinh hoạt chung với loài người chứ? Ta chỉ ăn thịt uống máu người. Hơn nữa bổn tánh của quỷ bạo ác nóng nảy và phẫn nộ khó lường.”

Ba vị quốc lão thưa rằng:

“Đất nước này vốn thuộc của ngài, xin hãy trở về làm vua như trước. Còn về việc ăn uống thì cứ để chúng thần lo liệu.”

Sau đó ba vị quốc lão cùng lui ra, rồi tuyên lệnh tất cả nhân dân đều phải bóc tăm và lần lượt mỗi nhà sẽ đưa ra một đứa bé để dâng lên cho vua quỷ bạo ác ăn. Trong khoảng 3.000 đến 4.000 gia đình, có một gia đình là đệ tử của Phật. Cả nhà tinh tấn hướng Đạo và nghiêm trì Năm Giới. Họ cũng theo mọi người bóc tăm và kết quả được thẻ đầu tiên. Bởi chỉ có một đứa con nhỏ mà nay sắp phải dâng lên cho vua quỷ ăn trước, nên tất cả kẻ lớn người nhỏ trong nhà đều buồn bã khóc lóc. Họ hướng trông về núi Thứu Phong, rồi từ xa đảnh lễ Phật, sám hối nghiệp chướng và tự trách bạt phước.

Với Đạo nhãn, Đức Phật thấy sự đau thương của họ và liền tự nói rằng:

“Do nhờ nhân duyên của đứa bé này mà vô số người sẽ được hóa độ.”

Đức Phật liền một mình bay đến trước cửa của quỷ bạo ác, biến hiện quang minh tướng hảo và chiếu ánh sáng vào trong cung. Khi thấy ánh sáng, quỷ bạo ác nghi đó là một người khác thường. Nó lập tức đi ra, và khi trông thấy Phật thì liền khởi lòng độc ác và muốn nuốt chửng Phật. Lúc ấy ánh sáng của Phật bắn vào mắt của vua quỷ, nên khiến cho hòn núi của nó vác đến và tài nghệ phun lửa đều hóa thành tro bụi. Chiến đấu đến một hồi lâu thì quỷ bạo ác kiệt quệ và sau đó mới chịu hàng phục. Vua quỷ thỉnh Phật vào trong ngồi, rồi cúi đầu đảnh lễ. Bấy giờ Đức Phật giảng Kinh. Vua quỷ nhất tâm nghe Pháp, rồi xin thọ Năm Giới và làm Thanh Tín Nam.

Giữa lúc ấy, kẻ quan lại đến nhà đệ tử của Phật, rồi cưỡng đoạt đứa bé mang đi. Cả nhà gào khóc và chạy theo sau. Khi thấy tình cảnh này, vô số người đến xem đều xót thương. Sau đó kẻ quan lại bế đứa bé đặt ở trước quỷ bạo ác.

Quỷ bạo ác liền bế đứa bé đến trước Phật, rồi đưa cao lên, hai gối quỳ và thưa với Phật rằng:

“[Thưa Thế Tôn!] Nhân dân trong nước luân phiên mỗi ngày dâng lên một đứa bé để con ăn thịt. Nay con đã thọ Năm Giới của Phật và không thể ăn thịt đứa bé này được nữa. Con xin trao đứa bé này cho Phật để làm thị giả của Ngài.”

Đức Phật nhận lấy và liền chú nguyện. Lúc đó quỷ bạo ác hoan hỷ và đắc Quả Nhập Lưu.

Sau đó Đức Phật bỏ đứa bé vào trong bát, đi ra khỏi cổng thành, rồi trao lại cho cha mẹ của nó và bảo rằng:

“Hãy nuôi dưỡng đứa bé thật tốt và chớ đau buồn nữa.”

Khi mọi người thấy Phật, không ai là chẳng kinh ngạc. Họ kinh ngạc không biết là vị thần nào? Họ thắc mắc đứa bé này có phước đức gì mà khiến Đức Phật đích thân đến cứu khỏi từ miệng của quỷ bạo ác, rồi trao lại cho cha mẹ của nó?

Bấy giờ Thế Tôn ở giữa đại chúng mà nói kệ rằng:

“Giới đức khéo bảo hộ
Phước báo luôn tùy thân
Thấy Pháp làm nhân sư
Vĩnh xa ba đường ác

Giữ giới trừ hãi sợ
Phước đức ba cõi kính
Quỷ rồng tà độc hại
Không phạm ai trì giới”

Khi nghe được kệ của Phật và lại thấy quang minh tướng hảo của Thế Tôn nên biết là bậc chí tôn, không một ai trong ba cõi có thể sánh bằng, vô số người liền đều quy y và xin làm đệ tử của Phật. Lòng họ hân hoan khi nghe kệ của Phật và đều thấy dấu Đạo.

Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời người, rồng, quỷ thần, quốc vương, quần thần, nhân dân, và vô số đại chúng ở vườn Nai gần thành Lộc Dã.

Bấy giờ có một thái tử của một nước lớn nọ, dẫn theo 500 vương tử của các nước nhỏ đi đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Phật, và ngồi qua một bên để nghe Pháp.

Sau đó các vương tử bạch Phật rằng:

“[Bạch Thế Tôn!] Phật Đạo vi diệu thanh tịnh, cao viễn huyền thâm, và không gì sánh bằng. Từ xưa đến nay, có quốc vương, thái tử, đại thần, hoặc con của trưởng giả nào mà lìa bỏ địa vị quyền quý và ân ái vinh hoa để trở thành Đạo Nhân chăng?”

Phật bảo các vương tử:

“Địa vị quyền quý và ân ái vinh hoa của thế gian thì như huyễn, như hóa, như mộng, như âm vang. Chợt đến chợt đi và chẳng thể bảo hộ lâu dài. Lại có quốc vương hoặc thái tử do vướng ba việc ác này mà chẳng thể đắc Đạo.

Những gì là ba?

1. Kiêu mạn buông lung và chẳng nhớ học tập diệu nghĩa của Kinh Phật để trí tuệ tăng trưởng.

2. Tham lam keo kiệt và không chịu bố thí kẻ nghèo cùng khốn khổ, tài bảo của quần thần và tướng sĩ chẳng phân hưởng với nhân dân.

3. Chẳng thể rời xa sắc dục và những việc yêu thích, chẳng thể xả bỏ lao ngục của phiền não để trở thành Đạo Nhân và diệt trừ khổ ách.

Sở dĩ Bồ-tát nguyện chuyển sanh làm vua là để tu hành, diệt trừ ba việc này, và tự chứng thành Phật.

Lại có ba việc lành. Những gì là ba?

1. Thiếu niên học tập, thống lãnh đất nước, và giáo hóa nhân dân tu hành Mười Nghiệp Lành.

2. Luôn dùng tài vật bố thí kẻ bần cùng đơn côi, quần thần tướng sĩ và nhân dân cùng chung hưởng an vui.

3. Luôn nghĩ vô thường, tánh mạng khó bảo hộ lâu dài, và muốn xuất gia trở thành Đạo Nhân để đoạn trừ nhân duyên của khổ và không còn thọ sanh tử.

Nếu chẳng thực hành ba việc này thì họ sẽ không được như sở nguyện.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn tự thuật rằng:

“Vào thuở xưa ở đời trước, ta từng làm Chuyển Luân Thánh Vương, tên là Nam Vương Hoàng Đế, có bảy báu luôn uy trấn bên mình. Có cung điện ao tắm, viên lâm du hí, quần thần, quan ngự trù, phu nhân thể nữ, và voi ngựa, mỗi thứ có đến 84.000. Ngài lại có 1.000 con trai dũng mãnh tinh duệ. Sức mạnh của mỗi vương tử có thể địch cả 1.000 người, phi hành hư không, việc làm như ý và không ai dám đối nghịch. Họ sống đến 84.000 tuổi, đều dùng chánh Pháp trị nước và không làm nhân dân oán trách.

Một hôm vua Chuyển Luân bỗng nhiên tự nghĩ thầm:

“Đời người ngắn ngủi, vô thường và khó bảo hộ. Thế nên ta nhất định phải tu tập phước đức và cầu Đạo chân thật. Ta sẽ luôn bố thí đến hết thảy nhân dân trong thế gian. Tất cả tài vật sẽ cùng dân phân hưởng. Sau khi đã trồng phước đức này, ta sẽ xuất gia để trở thành Đạo Nhân. Một khi đã đoạn tuyệt tham dục thì mới có thể diệt trừ khổ não.”

Nhà vua liền ra lệnh cho người thợ hớt tóc rằng:

‘Nếu thấy có tóc bạc trên đầu thì phải liền báo cho trẫm biết.’

Đến một thời gian dài khoảng vài chục ngàn năm sau, người thợ hớt tóc tâu rằng:

‘[Muôn tâu thánh vương!] Trên đầu ngài đã mọc tóc bạc.’

Nhà vua ra lệnh nhổ chúng và đặt ở trên bàn.

Khi thấy những sợi tóc bạc, nhà vui rơi lệ và nói rằng:

“Sứ giả thứ nhất hốt nhiên đã đến. Nay đầu đã bạc, ta phải nên xuất gia làm Đạo Nhân và cầu Đạo tự nhiên.”

Sau đó nhà vua đặt những sợi tóc bạc vào lòng bàn tay, rồi tự nói kệ rằng:

“Đầu ta nay đã bạc
Dấu hiệu thời trẻ qua
Thiên sứ đến báo tin
Đến lúc phải xuất gia”

Nhà vua lập tức triệu tập quần thần và lập thái tử lên ngôi, rồi trở thành Đạo Nhân và vào núi tu Đạo. Khi thọ mạng ở nhân gian chấm dứt, ngài liền sanh làm thái tử của Năng Thiên Đế ở tầng trời thứ hai.

Vị vua kế nhiệm cũng thống lãnh thiên hạ như tiên vương thuở trước và cũng bảo người thợ hớt tóc rằng:

‘Nếu thấy có tóc bạc trên đầu thì phải liền báo cho trẫm biết.’

Đến một thời gian dài về sau, người thợ hớt tóc tâu rằng:

‘[Muôn tâu thánh vương!] Trên đầu ngài đã mọc tóc bạc.’

Nhà vua ra lệnh nhổ những sợi tóc bạc, rồi đặt chúng vào lòng bàn tay và nói kệ rằng:

“Đầu ta nay đã bạc
Dấu hiệu thời trẻ qua
Thiên sứ đến báo tin
Đến lúc phải xuất gia”

Nhà vua cũng lập tức triệu tập quần thần và lập thái tử lên ngôi, rồi trở thành Đạo Nhân và vào núi tu Đạo. Khi thọ mạng ở nhân gian chấm dứt, ngài liền sanh lên trời làm Năng Thiên Đế. Còn vị thiên đế trước đây, khi thọ mạng ở thiên thượng chấm dứt, ngài sanh làm thái tử của vua Chuyển Luân. Ba vị ấy luân phiên làm cha con với nhau, hoặc sanh lên trời làm thiên đế, hoặc sanh xuống nhân gian làm vua Chuyển Luân, hoặc sanh làm thái tử của thiên đế hay thái tử của vua Chuyển Luân. Mỗi vị trải qua 36 lần như thế và thời gian dài đến khoảng vài ngàn vạn năm. Khi vừa kết thúc rồi lại bắt đầu nối tiếp thực hành ba việc lành ở trên và tự chứng thành Phật.

Vua cha thuở đó nay chính là thân Ta. Thái tử chính là Bhikṣu Thu Lộ Tử. Cháu nội của vua chính là Thị giả Khánh Hỷ. Trải qua nhiều đời thọ sanh và triển chuyển làm vua Chuyển Luân, rồi dùng Chánh Pháp giáo hóa nhân dân trong thiên hạ. Việc này rất đặc biệt và tôn quý, khắp ba cõi không một ai có thể sánh bằng”

Khi Phật nói lời ấy xong, tất cả vương tử của các nước đều sanh tâm đại hoan hỷ. Họ thọ trì Năm Giới của Phật, xin làm Thanh Tín Sĩ, và đều đắc Quả Nhập Lưu.

Thuở xưa Đức Phật ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá để chuyển Pháp luân của ba thừa cho hàng trời người, rồng và quỷ thần.

Đương thời ở bên bờ nước sông Hằng về hướng nam của núi Thứu Phong, có một Phạm Chí thuộc phái Ly Hệ, xuất thân từ gia tộc tôn quý lâu đời. Ông thông minh tài trí, thông hiểu những chuyện xưa nay, và đã chứng năm loại thần thông. Ông nuôi dưỡng và chỉ dạy 500 đệ tử. Họ đều thông đạt thiên văn địa lý, tinh tú, và nhân tình–tất cả đều xem xét rõ ràng. Họ lại đều biết mưu lược trong ngoài, những chuyện cát hung họa phước, và thời điểm tốt xấu xuất hiện hoặc tiêu mất. Những vị đệ tử này của Phạm Chí có nhân duyên tu hành ở nơi chư Phật vào đời trước và sắp sửa đắc Đạo.

Một hôm họ đều đến bờ nước, cùng ngồi đàm luận và hỏi với nhau rằng:

“Những việc làm của nhân dân trong các nước trên thế gian, điều gì là cát tường?”

Tất cả đệ tử đều chẳng hiểu. Do đó họ đi đến chỗ của thầy, rồi đảnh lễ thầy và thưa rằng:

“Chúng con theo thầy học tập đã lâu và sở học đều đã thông đạt. Tuy nhiên chúng con chưa nghe qua điều gì là cát tường của nhân dân trong các nước trên thế gian?”

Phạm Chí bảo rằng:

“Các con hỏi rất hay! Ở châu Thắng Kim có 16 nước lớn và 84.000 nước nhỏ. Mỗi nước đều có sự cát tường riêng. Như là vàng hay bạc, thủy tinh lưu ly, minh nguyệt thần châu, voi ngựa xe cộ, ngọc nữ san hô, kha bối kỹ nhạc, phượng hoàng khổng tước, nhật nguyệt tinh tú, bình báu, ngắm hoa, hoặc kính trọng Phạm Chí Đạo sĩ. Những việc ấy là sự yêu thích của nhân dân trong các nước và được xem là điềm lành cát tường. Nếu họ thấy những điều ấy, họ tán dương là việc lành vô lượng. Những điềm lành ấy là sự cát tường của nhân dân trong các nước vậy.”

Các đệ tử thưa rằng:

“[Thưa ân sư!] Ngoài những việc ấy, còn có sự cát tường đặc biệt nào mà có thể giúp người sau khi chết sanh lên trời chăng?”

Phạm Chí đáp rằng:

“Về việc này thì thầy chưa từng nghe các bậc tiên sư nói đến và trong sách điển cũng không ghi chép.”

Các đệ tử thưa rằng:

“Gần đây chúng con nghe nói có một vị thuộc dòng tộc Năng Nhân đã xuất gia tu Đạo, khổ hạnh sáu năm, rồi hàng ma thành Đạo và có Ba Minh vô ngại. Chúng ta hãy cùng nhau thử đến hỏi để biết sự thông đạt của vị ấy như thế nào, có được không thưa sư phụ?”

Và thế là thầy trò hơn 500 người cùng băng rừng vượt núi để đến chỗ của Phật, rồi đảnh lễ Phật và ngồi ở chỗ của Phạm Chí.

Sau đó họ chắp tay, quỳ hai gối và bạch Đức Phật Thế Tôn rằng:

“[Bạch Thế Tôn!] Sự cát tường của nhân dân trong các nước có những việc như thế. Chẳng hay còn có sự cát tường nào hơn chăng?”

Phật bảo Phạm Chí:

“Những việc của thế gian mà ông nói, nếu thuận là cát tường, còn nghịch là tai họa. Chúng đều chẳng thể giúp người lìa khổ và độ thoát sanh tử. Còn về Pháp cát tường mà Ta biết, đó là những ai tu Đạo thì sẽ được phước, vĩnh viễn lìa khỏi ba cõi, và tự đạt đến tịch diệt.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn nói kệ rằng:

“Phật đức thắng chư thiên
Như Lai luôn thuyết Pháp
Có Phạm Chí đến hỏi
Điều gì cát tường nhất?

Bấy giờ Phật thương xót
Liền giảng Đạo chân thật
Tín thọ mến Chánh Pháp
Đó là cát tường nhất

Nếu không từ trời người
Hy vọng cầu may mắn
Cũng không cúng thờ thần
Đó là cát tường nhất

Bạn hiền, sống chốn lành
Thường nghĩ tích phước đức
Thân nghiệp luôn chân chánh
Đó là cát tường nhất

Lìa ác tu việc lành
Bỏ rượu biết tiết chế
Nữ sắc không tham đắm
Đó là cát tường nhất

Đa văn siêng trì giới
Kinh giới tinh tấn học
Tu thân không đua tranh
Đó là cát tường nhất

Hiếu thảo thờ mẹ cha
Lo lắng cho gia đình
Chẳng làm việc vô nghĩa
Đó là cát tường nhất

Không ngạo mạn tự đại
Luôn phản tỉnh biết đủ
Dành thời gian đọc Kinh
Đó là cát tường nhất

Lòng nhẫn việc không tốt
Vui muốn thấy Đạo Nhân
Nghe Pháp luôn tín thọ
Đó là cát tường nhất

Ăn chay tu tịnh hạnh
Luôn mong gặp thánh hiền
Thân cận bậc trí tuệ
Đó là cát tường nhất

Tín tâm nơi Chánh Đạo
Chánh ý không hoài nghi
Muốn thoát ba đường ác
Đó là cát tường nhất

Tâm bình đẳng bố thí
Phụng sự bậc đắc Đạo
Cũng kính hàng trời người
Đó là cát tường nhất

Luôn muốn lìa tham dục
Sân hận và si mê
Khéo tu thấy dấu Đạo
Đó là cát tường nhất

Nếu bỏ việc phi pháp
Siêng năng tu Chánh Đạo
Luôn làm việc nên làm
Đó là cát tường nhất

Tất cả vì thiên hạ
Kiến lập tâm đại từ
Tu thiện an chúng sanh
Đó là cát tường nhất

Người trí sống thế gian
Luôn làm việc cát tường
Thành tựu chân trí tuệ
Đó là cát tường nhất”

Khi nghe kệ của Phật, thầy trò Phạm Chí sanh tâm đại hoan hỷ, cõi lòng mở thông, rồi ở trước Phật thưa rằng:

“Thật vi diệu thay, thưa Thế Tôn! Thế gian có những việc hy hữu như vậy. Từ xưa do mê muội nên chúng con chẳng tỏ ngộ. Kính mong Thế Tôn thương xót từ bi cứu độ. Chúng con xin tự quy y Phật Pháp Tăng và mong được làm Đạo Nhân để tu hành trong Pháp của Ngài.”

Đức Phật bảo:

“Lành thay, thiện lai Bhikṣu!”

Các Phạm Chí lập tức trở thành Đạo Nhân. Sau khi tu tập quán sát hơi thở ra vào, họ đều thành bậc Ứng Chân. Bấy giờ có vô số người đến nghe Pháp cũng đều được Pháp nhãn thanh tịnh.

Nguồn Bài Viết : https://daitangkinh.net/ ( Đại Tạng Kinh )

4 lượt xem | 0 Bình luận
Nam Mô A Di Đà Phật - Pháp Giới là trang chia sẻ phật pháp, kinh phật, pháp âm, câu chuyện phật giáo. Mong góp chút sức lực bé nhỏ để giúp các bạn tiếp cận được đại trí thức của đức Phật. Đừng hỏi tôi là ai. Hãy chấp trì danh hiệu Phật, gieo duyên với Phật Pháp để giúp bạn an lạc.
Pháp Âm Thần Chú Tu Học Blog