Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương ♦ Quyển 2
“Sau Đức Phật Trì Kế, có Đức Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Biến Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Này Trừ Cái Chướng! Vào thuở đó, ta là một vị tiên nhân tu hành nhẫn nhục và trú trong rừng sâu núi thẳm. Nơi ấy cao hẹp, sỏi đá lởm chởm, và không ai có thể đến hoặc ở lâu trong đó.
Lúc ở nơi Như Lai kia, ta đã nghe về uy thần công đức của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát.
Khi Quán Tự Tại vào trong đất vàng, ngài hóa hiện thân hình và vì loài hữu tình với gương mặt bị che khuất mà thuyết diệu Pháp, khai thị Tám Chánh Đạo và đều khiến họ đắc Đạo tịch diệt.
Sau khi rời khỏi đất vàng, ngài lại vào trong đất bạc. Chúng sanh nơi đây đều có bốn chân và đang sống trong đó.
Quán Tự Tại Đại Bồ-tát vì muốn cứu độ loài hữu tình kia nên ngài thuyết Pháp cho họ rằng:
‘Tất cả nên lắng nghe Chánh Pháp như vầy, hãy phát khởi tâm tưởng và tư duy tường tận. Ta nay sẽ khai thị các tư lương để các ông đạt đến tịch diệt.’
Khi ấy, các hữu tình này đứng ở phía trước của Quán Tự Tại Bồ-tát và thưa với Bồ-tát rằng:
‘Đối với chúng sanh không có mắt mà vì họ mở sáng để khiến thấy Đạo.
Đối với người không có chỗ nương mà vì họ làm cha mẹ để khiến có chỗ tựa.
Những ai trong tối tăm mà vì họ làm ngọn đèn sáng và khai thị Chánh Đạo giải thoát.
Nếu có hữu tình nào niệm danh hiệu của Bồ-tát, họ sẽ được an lạc.
Chúng con phải luôn thọ lấy những khổ nạn như thế, xin hãy xót thương!’
Lúc ấy, khi tất cả chúng sanh này nghe Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương xong, chúng thảy đều được an vui và trụ không thoái chuyển.
Lúc bấy giờ, khi Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rời khỏi nơi đó, ngài lại vào đất sắt. Trong ấy có một Đại Lực Phi Thiên Vương đang bị cấm chế. Đức Bồ-tát đến nơi này và hiện ra thân Phật. Khi đó, Đại Lực Phi Thiên Vương từ nơi xa đi ra nghênh tiếp Quán Tự Tại Đại Bồ-tát. Ở tại cung điện của phi thiên vương có vô số quyến thuộc, trong ấy đa số đều là gù lưng, lùn và xấu xí. Các quyến thuộc như thế đều đến thân cận cùng đảnh lễ với trán chạm sát chân của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát.
Sau đó, phi thiên vương nói kệ rằng:
‘Hiện đời con đắc Quả
Sở nguyện tất viên thành
Như đã từng ước mong
Đây là do chánh kiến
Nên mới thấy Bồ-tát
Con cùng hàng quyến thuộc
Thảy đều được an vui’
Nói xong, Đại Lực Phi Thiên Vương lấy tòa báu của mình mà phụng hiến cho Quán Tự Tại Bồ-tát, rồi cung kính chắp tay và thưa rằng:
‘Từ xưa đến nay, con cùng hàng quyến thuộc say đắm tà dâm, lòng thường giận dữ, và còn thích giết hại chúng sanh. Do bởi tạo nghiệp tội như thế, nên lòng con lo sầu kinh hãi, sợ già chết cùng thọ các khổ não trong luân hồi. Chúng con không có chủ để nương và không có nơi để tựa. Xin hãy rủ lòng thương xót, từ bi cứu độ và thuyết giảng Pháp giải thoát cho chúng con để rời khỏi nơi cấm chế này.’
Ngài Quán Tự Tại nói rằng:
‘Thiện nam tử! Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác thường đi khất thực. Nếu ai có thể cúng dường thức ăn cho Ngài, phước đức có được của họ sẽ chẳng thể nào nói cho hết.
Thiện nam tử! Không chỉ riêng ta ở trong hang động của phi thiên này chẳng thể nào nói hết, thậm chí cho đến 12 Hằng Hà sa số Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng tụ hội lại một nơi thì cũng chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức như vậy.
Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lượng của hết thảy vi trần, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.
Thiện nam tử! Lại ví như biển lớn, ta có thể đếm mỗi giọt nước trong đó, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.
Thiện nam tử! Lại ví như bốn châu lớn, trong ấy có nam tử nữ nhân, bé trai bé gái, hết thảy họ đều chẳng trồng bất cứ loại cây gì, mà chỉ trồng đầy khắp bốn châu lớn đó toàn là hạt cải. Loài rồng làm mưa đúng mùa. Khi rau cải đến mùa thu hoạch, họ lấy một châu dùng làm sân để chứa những hạt cải và tích tụ thành một đống lớn. Thiện nam tử! Ta có thể đếm từng hạt như thế, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.
Thiện nam tử! Lại ví như Vua núi Diệu Cao, phần núi ở dưới nước sâu 84.000 yojana [dô cha na], phần núi ở trên nước cao 84.000 yojana. Thiện nam tử! Hãy lấy vua núi như thế để làm giấy, dùng tất cả nước của biển lớn để làm mực. Sau đó, tất cả người nam, người nữ, bé trai, và bé gái trong bốn châu lớn đều lấy giấy mực để biên chép, cho đến khi viết hết tất cả và số lượng ấy tích tụ như núi Diệu Cao. Ta có thể đếm mỗi chữ họ viết, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.
Thiện nam tử! Giả sử tất cả những người biên chép như vậy đều đắc Địa Thứ Mười của Bồ-tát, thì phước đức cộng chung của hết thảy Bồ-tát như thế, chỉ bằng phước đức cúng dường thức ăn cho Như Lai một lần; số lượng đó không bao giờ sai khác.
Thiện nam tử! Lại ví như số lượng biển lớn nhiều như cát sông Hằng, ta có thể đếm từng hạt cát trong đó, nhưng thiện nam tử, ta chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức có được do từ sự cúng dường thức ăn cho Như Lai.’
Khi nghe những lời ấy, Đại Lực Phi Thiên Vương rơi lệ than khóc, nước mắt đầm đìa, lòng buồn bã lo âu, và nghẹn ngào than thở, rồi thưa với Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rằng:
‘Con đã từng thực hành bố thí vào thuở xa xưa, nhưng sự bố thí ấy là cáu bẩn, hắc ám và phi pháp. Do bởi thực hành bố thí như vậy, cho nên nay con cùng hàng quyến thuộc phải bị cấm chế trong đường ác để thọ nghiệp báo. Chúng con chẳng biết rằng, dù chỉ cúng dường một chút thức ăn cho Như Lai thì sẽ biến thành cam lộ.
Từ xưa đến nay, con ngu si vô trí và tu tập pháp ngoại đạo của Phạm Chí. Thuở ấy có một người với thân hình lùn xấu đến chỗ con cầu xin. Lúc đó con chuẩn bị muôn loại mũ báu, hoa tai vàng bạc, y phục tuyệt đẹp, châu báu trang nghiêm, và các phẩm vật như thế.
Lại có trăm ngàn xe ngựa và xe voi báu. Chúng được trang nghiêm bằng trân châu anh lạc, lưới báu và treo những sợi dây tua vi diệu dùng để trang trí.
Lại có muôn loại lọng báu với lưới báu bao phủ, ở trên đó treo những chuông báu và chúng vang ra các âm thanh kêu leng keng.
Lại có 1.000 con bò màu vàng, lông có màu rất đẹp, móng chân trang nghiêm bằng bạc trắng, cặp sừng trang sức bằng hoàng kim, và còn có trân châu cùng các loại châu báu khác nhau dùng để trang trí nơi thân chúng.
Lại có 1.000 đồng nữ với thân hình mỹ miều, dung mạo đoan nghiêm, và hình dáng tựa như các thiên nữ. Đầu đội mũ trời và trên thân họ trang nghiêm với đôi hoa tai quý báu bằng vàng, các loại y phục xinh đẹp, dây thắt lưng báu, nhẫn đeo tay, vòng xuyến báu, xâu chuỗi anh lạc sáng chói lung linh, vòng hoa vi diệu, và các đồ trang sức như thế.
Lại có vô số trăm ngàn tòa báu khác nhau.
Lại có những loại tạp bảo bằng vàng bạc, các thứ ấy tích tụ nhiều vô số.
Lại có vài tỷ đàn bò cùng người canh giữ.
Lại có vô số thượng vị ẩm thực thơm ngon như cõi trời.
Lại có vô số chuông báu, vô số tòa sư tử bằng vàng bạc, vô số cây phất trần vi diệu với cây cán bằng vàng, và vô số lọng che được trang nghiêm bằng bảy báu.
Khi con đã chuẩn bị đủ các thứ như vậy để sắp làm đại bố thí, lúc ấy có trăm ngàn tiểu vương đều đến hội họp, trăm ngàn Phạm Chí cũng đến, và vô số tỷ hàng vua chúa cũng đến tham dự.
Khi con thấy họ đến, trong lòng khởi lên hoài nghi khác thường. Vào thời đó, chỉ một mình con là tối tôn, có đầy đủ thế lực lớn và thống lãnh đại địa. Bởi con y theo pháp của Phạm Chí để sám hối nghiệp ác đời trước, nên con muốn giết chết hàng vua chúa cùng vợ con quyến thuộc của họ, rồi moi tim mổ gan để cúng tế trời, và hy vọng làm như thế sẽ diệt đi tội của mình.
Lúc ấy con xiềng xích một tỷ tiểu vương thuộc dòng dõi quý tộc, rồi nhốt họ tại một hang bằng đồng cùng với vô số trăm ngàn kẻ hạ tiện sống nơi biên địa. Hết thảy họ đều bị giam ở trong hang động này. Con lại dùng dây xích sắt và chốt sắt để trói buộc tay chân của hàng vua chúa kia.
Thuở đó, trong hang động ấy con xây những lớp cổng.
– Dùng gỗ bình thường để làm lớp cổng thứ nhất.
– Dùng gỗ cây keo để làm lớp cổng thứ nhì.
– Lại dùng sắt để làm lớp cổng thứ ba.
– Lại dùng đồng tinh luyện để làm lớp cổng thứ tư.
– Lại dùng đồng chưa tinh luyện để làm lớp cổng thứ năm.
– Lại dùng bạc trắng để làm lớp cổng thứ sáu.
– Lại dùng hoàng kim để làm lớp cổng thứ bảy.
Ở trên bảy lớp cổng như thế, mỗi lớp cổng con dùng 500 ổ khóa siết chặt lại và còn để một hòn núi ở trước mỗi cổng.
Rồi một hôm nọ, Nhân Sanh Bổn Thiên bỗng nhiên hóa làm thân của một con ruồi và bay đến dò thám. Lại một hôm khác, ngài hóa làm thân của một con ong. Rồi một ngày nọ, ngài hóa làm thân của một con heo. Lại một ngày khác, ngài hóa làm thân tướng của loài phi nhân. Cứ mỗi ngày như vậy, ngài biến đổi thân tướng khác nhau để đến dò thám.
Lúc bấy giờ trong lòng con nghĩ là sẽ thi hành pháp của Phạm Chí. Khi Nhân Sanh Bổn Thiên thấy thế, ngài vào trong hang đồng mà phá hủy. Ngài dẹp đi bảy hòn núi ở trước các cổng và ném bỏ chúng ở chỗ khác.
Sau đó, ngài hô lớn đến những người đang bị nhốt trong kia rằng:
“Vô thắng thiên tử! Thân của các người đang chịu lắm khổ não, các người vẫn còn sống hay đã chết?”
Khi những người ấy nghe tiếng kêu hỏi, họ liền đáp rằng:
“Chúng tôi vẫn còn sống! Thưa Nhân Sanh Bổn Thiên Tôn, bậc đại lực tinh tấn, xin hãy cứu chúng tôi thoát khỏi khổ nạn!”
Sau đó vị trời ấy phá hủy bảy lớp cổng của hang đồng và những tiểu vương ở trong hang được thoát khỏi nạn xiềng xích.
Khi thấy Nhân Sanh Bổn Thiên, trong lòng của mỗi người họ suy nghĩ rằng:
“Đại Lực Phi Thiên Vương có phải đã chết rồi chăng? Hắn hiện vẫn còn sống hay đã chết ở nơi nào?”
Các hàng vua chúa lại nói rằng:
“Chúng ta thà chết mà cùng hắn quyết đấu, còn hơn phải bị chết do giam cầm ở chỗ này. Bây giờ chúng ta nên y theo vương pháp, chiến đấu đánh nhau với hắn. Giả như chúng ta bị chết trong địa phận của hắn, chúng ta sẽ được sanh lên trời.”
Thế rồi mỗi tiểu vương từ nơi ở của mình mà chuẩn bị xe và yên ngựa. Tay họ cầm binh khí và sắp muốn khai đại chiến.
Lúc bấy giờ, Nhân Sanh Bổn Thiên biến làm một vị Phạm Chí với thân hình lùn xấu, da hươu quấn ở hai nách, trong tay cầm một cây chỉa ba, và đến cửa thành của con.
Khi đó, người gác cửa bảo người kia rằng:
“Không được vào trong cửa này, ngươi là kẻ lùn xấu. Đứng lại, cấm vào trong đó!”
Phạm Chí nói rằng:
“Tôi từ nơi xa đến đây.”
Người gác cửa hỏi Phạm Chí:
“Ngươi từ đâu đến?”
Phạm Chí đáp rằng:
“Tôi là một đại tiên nhân. Tôi từ cung vua của quốc vương nước Nguyệt Thị đến đây.”
Khi đó người gác cửa đến chỗ của con và tâu rằng:
“Tâu đại vương! Hiện có một Phạm Chí với thân hình lùn xấu đến nơi này.”
Con nói rằng:
“Ngươi có biết người đó muốn gì không?”
Người gác cửa thưa rằng:
“Dạ tiểu nhân không biết người đó muốn gì.”
Con nói rằng:
“Ngươi đi kêu Phạm Chí đó vào đây.”
Nhận được sắc lệnh, kẻ gác cửa gọi Phạm Chí vào trong. Khi đã thấy rồi, con lấy tòa báu và bảo Phạm Chí ngồi.
Lúc trước con có một vị thầy, tên là Kim Tinh.
Khi Phạm Chí còn chưa vào trong, vị thầy này đã mách trước với con rằng:
“Phạm Chí này là một kẻ ác. Hắn đến đây cốt ý là để phá hoại kế hoạch của đại vương đó.”
“Sao ngài có thể biết được?”
Kim Tinh đáp rằng:
“Thần tất nhiên biết. Đại vương có biết người đang hiện thân tới đây là ai không? Đó là Nhân Sanh Bổn Thiên.”
Khi nghe xong lời tâu ấy, con liền suy nghĩ rằng:
“Ta luôn thực hành bố thí mà chưa hề thôi nghỉ. Tại sao hôm nay Phạm Chí kia muốn tới đây phá hoại ta.”
Sau đó con nghĩ thế này:
“Ta nên dùng lời nói khôn khéo để dò hỏi Phạm Chí đó.”
“Ngài đến chỗ của tôi, thật tình ngài muốn điều gì?”
Phạm Chí đáp rằng:
“Tôi đến chỗ của đại vương để xin hai bước đất.”
Con nói với Phạm Chí rằng:
“Ngài cần một ít đất và nói là muốn xin hai bước đất. Được! Tôi sẽ cho ngài ba bước đất.”
Sau đó con lấy bình vàng đựng nước sạch và nói rằng:
“Nếu ngài cần đất đai, vậy xin hãy nhận lấy!”
Phạm Chí tiếp thọ và chú nguyện rằng:
“Nguyện đại vương sẽ được an vui và sống lâu.”
Khi đó, Phạm Chí với thân hình lùn xấu bỗng nhiên biến mất.
Lúc bấy giờ, Kim Tinh bẩm cáo với con rằng:
“Đại vương! Nay ngài sẽ thọ quả báo do từ nghiệp ác đó.”
Khi ấy, Nhân Sanh Bổn Thiên bỗng hốt nhiên hiện thân, trên hai vai vác mặt trời và mặt trăng, còn tay thì cầm nào là gươm bén, bánh xe, gậy, cung tên, và các khí trượng như thế. Lúc con thấy xong, liền giật mình, sợ hãi kinh hoàng, run lẩy bẩy, rồi té lăn và xỉu trên đất.
Một hồi lâu sau con mới tỉnh dậy và than rằng:
“Ta phải làm sao đây! Chẳng lẽ phải uống thuốc độc để chết sao?”
Khi ấy, Nhân Sanh Bổn Thiên dùng bước chân đo đất đai, chỉ với hai bước mà không còn một tấc đất nào cả.
“Ta đã hứa là cho ba bước, nhưng bây giờ không đủ, ta phải làm sao đây?”
Nhân Sanh Bổn Thiên nói với con rằng:
“Nay ông phải nên theo sự chỉ giáo của tôi.”
Lúc đó con thưa rằng:
“Tôi xin tuân theo sự chỉ giáo của ngài.”
Nhân Sanh Bổn Thiên nói rằng:
“Ông có thật là sẽ tuân theo không?”
Con thưa rằng:
“Tôi xin thật lòng. Lời nói này là thành thật, lòng tôi không bao giờ hối tiếc.”
Lúc ấy con y theo lời chỉ dạy và đều phá hủy tất cả những nơi tác pháp của Phạm Chí. Tất cả vàng bạc, trân bảo trang nghiêm, đồng nữ, y phục, chuông báu, lọng che, cây phất trần quý hiếm, tòa sư tử báu, bò màu vàng với châu báu trang nghiêm, cùng các vật báu trang nghiêm, con thảy đều đưa hết cho các tiểu vương và thả họ ra khỏi nơi tác pháp đó.’
Đại Lực Phi Thiên Vương thưa với Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rằng:
‘Nay con tư duy và mới tỏ ngộ. Vì thuở xa xưa, con y theo pháp của Phạm Chí để làm sự bố thí rộng lớn. Nhưng do vì việc bố thí đó là cáu bẩn, đen tối, và bất tịnh. Vì thế, nay con cùng hàng quyến thuộc phải bị cấm giam ở tại hang sắt và chịu lắm khổ não.
Thưa Thánh Quán Tự Tại, con nay xin quy y. Xin ngài rủ lòng thương xót và cứu chúng con thoát khỏi chốn khổ nạn này.’
Đại Lực Phi Thiên Vương dùng kệ tán thán rằng:
‘Quy mạng Đại Bi Liên Hoa Thủ
Đại Liên Hoa Vương đại cát tường
Đủ mọi trang nghiêm diệu sắc thân
Búi tóc mũ trời trang nghiêm báu
Đảnh đội mũ báu Nhất Thiết Trí
Cứu độ chúng sanh vô số kể
Ai có bệnh khổ cầu an lạc
Bồ-tát hiện thân làm y vương
Đại địa mắt sáng hơn mặt trời
Tối thượng thanh tịnh vi diệu nhãn
Chiếu soi hữu tình được giải thoát
Khi đã giải thoát sẽ tương ứng
Ví như diệu bảo như ý châu
Khéo hộ chân thật diệu Pháp tạng
Thường luôn tuyên giảng Pháp Sáu Độ
Tuyên dương Pháp này đủ đại trí
Con nay thành khẩn xin quy y
Tán thán Đại bi Quán Tự Tại
Chúng sanh nhớ niệm Bồ-tát danh
Lìa khổ giải thoát được an ổn
Ai tạo nghiệp ác đọa địa ngục
Địa ngục Dây Đen và Vô Gián
Nếu ai thọ khổ trong đường ác
Xưng danh hiệu ngài sẽ giải thoát
Đường ác như thế các hữu tình
Thảy đều lìa khổ được an vui
Nếu ai thường niệm Đại Sĩ danh
Tất được vãng sanh cõi Cực Lạc
Diện kiến Như Lai Vô Lượng Thọ
Nghe Pháp vi diệu chứng vô sanh’
Lúc bấy giờ, Quán Tự Tại Đại Bồ-tát thọ ký cho Đại Lực Phi Thiên Vương rằng:
‘Vào đời vị lai, ông sẽ thành Phật, hiệu là Cát Tường Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vào lúc đó, ông sẽ chứng môn tổng trì của Lục Tự Đại Minh Vương. Tất cả chúng phi thiên hiện đang ở đây, ông vào đời vị lai đều sẽ cứu độ họ. Hết thảy hữu tình trong cõi Phật đó đều chẳng hề nghe có tiếng của tham sân si.’
Khi Đại Lực Phi Thiên Vương nghe thọ ký xong, liền cầm xâu chuỗi anh lạc với trị giá bằng trăm ngàn trân châu, lại dùng muôn loại diệu bảo trang nghiêm, một tỷ mũ trời và hoa tai để dâng lên và thưa rằng:
‘Xin hãy rủ lòng thương xót mà nhận lấy cho.’
Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Đại Bồ-tát bảo Đại Lực Phi Thiên Vương rằng:
‘Ta nay sẽ thuyết Pháp cho ông. Ông hãy lắng nghe và khéo tư duy. Đời là vô thường huyễn hóa, mạng sống ngắn ngủi và gặp nhiều khổ nạn. Trong lòng các ông thường nghĩ tưởng tham muốn có đầy đủ phước đức lớn, lòng luôn yêu thích nô tỳ và nhân dân, cho đến lúa gạo, kho chứa thực phẩm cùng những kho tàng lớn. Lòng thường yêu thích cha mẹ, vợ con cùng hàng quyến thuộc. Những việc như vậy, tuy luôn yêu thích nhưng thấy chúng như đang ở trong mộng. Khi đến lúc lâm chung, không một thứ gì có thể tương trợ cứu giúp và làm cho họ sống mãi ở Nam Châu Thắng Kim.
Do bởi điên đảo nên sau khi mạng chung, họ thấy con sông Nại rộng lớn với tràn khắp máu mủ đang trôi chảy. Họ lại thấy những cây cối to lớn đang bốc cháy phừng phực. Khi thấy việc ấy rồi, lòng sanh kinh sợ. Lúc đó, các ngục tốt của Diêm Vương dùng dây trói và kéo họ đi qua các đại lộ đầy mũi nhọn mà chẳng chút thương tiếc. Nhấc chân lên hoặc bỏ chân xuống, họ đều bị đâm, bị cắt, bị xẻo. Lại còn có vô số chim quạ, kên kên, diều hâu và chó dại ăn thịt của họ. Họ ở trong đại địa ngục để chịu ách khổ tột cùng như thế.
Trên các đại lộ đầy mũi nhọn, lại có những cây gai lớn và dài đến 12 ngón tay. Trong mỗi bước đi có 500 cây gai đâm vào lòng bàn chân và làm cho họ khóc lóc thảm thiết.
Họ than rằng:
“Loài hữu tình chúng ta tạo nghiệp tội đều do bởi tham ái. Bây giờ phải chịu ách khổ tột cùng, giờ chúng ta có thể làm gì đây?”
Khi đó, các ngục tốt của Diêm Vương liền nói rằng:
“Từ xưa đến nay, các ngươi chưa từng lấy thức ăn để cúng dường Đạo Nhân, chưa từng nghe Pháp âm và cũng chưa từng nhiễu quanh tháp tượng.”
Lúc ấy chúng tội nhân thưa với các ngục tốt của Diêm Vương rằng:
“Do bởi tội chướng, chúng tôi không tin hiểu và không tôn kính Phật Pháp Tăng, vì thế mà thường xa lánh.”
Các ngục tốt nói rằng:
“Các ngươi tự mình tạo đủ mọi nghiệp ác, nay phải tự thọ lấy khổ báo.”
Nói xong, các ngục tốt mang những người tội đến chỗ của Diêm Vương.
Khi đến nơi, họ đứng ở trước và lúc ấy Diêm Vương phán rằng:
“Mang bọn chúng đến nơi của nghiệp báo.”
Khi đó, các ngục tốt của Diêm Vương lôi kéo người tội đến Đại địa ngục Dây Đen. Lúc đến nơi, những tội nhân này, từng người từng người một bị ném xuống đó. Khi ném vào trong địa ngục, thân thể của mỗi tội nhân bị 100 cây thương đâm vào thân xác, nhưng họ đều không chết. Tiếp đó, lại bị 200 cây thương lớn đâm vào thân, nhưng họ vẫn còn sống. Sau cùng, có 300 cây thương lớn đồng một lúc đâm vào thân xác của mỗi người tội, nhưng họ vẫn không chết.
Khi tánh mạng được phục hồi, lúc ấy họ lại bị ném vào trong hầm lửa lớn, nhưng họ vẫn không chết. Ngay lúc ấy, họ lại bị các ngục tốt bỏ những viên sắt nóng vào trong miệng và bắt nuốt, khiến cho môi, răng, thịt chân răng, hàm răng cùng cổ họng thảy đều cháy chín. Tim, ruột, và bụng bị cháy sèo sèo và làm cho toàn thân bị thiêu rụi.’
Lại bảo Đại Lực Phi Thiên Vương rằng:
‘Khi thọ khổ như thế, sẽ không một ai có thể tương cứu. Ông nên biết, ta nay vì ông mà thuyết Pháp như vậy. Các ông phải tự cố gắng làm phước.’
Khi ấy, Quán Tự Tại Đại Bồ-tát bảo Đại Lực Phi Thiên Vương rằng:
‘Bây giờ Ta muốn đến Tinh xá Kỳ Viên, hôm nay đại chúng đang hội họp nơi đó.’
Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-tát phóng ra vô số ánh sáng với màu sắc khác nhau, như là ánh sáng màu xanh, ánh sáng màu hoàng kim, ánh sáng màu đỏ, ánh sáng màu trắng, ánh sáng màu pha lê, ánh sáng màu vàng, và những ánh sáng khác như thế. Những ánh sáng này chiếu đến ở trước Biến Thắng Như Lai.
Khi đó có trời, rồng, quỷ tiệp tật, quỷ bạo ác, nghi thần, đại mãng xà, cùng người và phi nhân đều đến hội họp.
Lại có vô số chư đại Bồ-tát cũng đều đến hội họp.
Lúc ấy trong đại chúng kia có một vị Bồ-tát, tên là Hư Không Tạng.
Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục, vén áo lộ vai phải, gối phải quỳ sát đất, cung kính chắp tay, rồi hướng về Đức Phật kia mà bạch rằng:
‘Bạch Thế Tôn! Những ánh sáng này là từ đâu chiếu đến?’
Đức Phật kia bảo:
‘Thiện nam tử! Những ánh sáng này là từ Quán Tự Tại Bồ-tát ở trong cung điện của Đại Lực Phi Thiên Vương phóng ra và chiếu đến nơi đây.’
Lúc đó Hư Không Tạng Bồ-tát bạch Đức Thế Tôn kia rằng:
‘[Bạch Thế Tôn!] Con nay phải dùng phương tiện gì mới có thể thấy Quán Tự Tại Bồ-tát kia?’
Đức Phật kia bảo:
‘Thiện nam tử! Vị Bồ-tát kia cũng đang đến nơi này.’
Khi Quán Tự Tại Bồ-tát rời khỏi cung điện của Đại Lực Phi Thiên Vương, Tinh xá Kỳ Viên bỗng hốt nhiên có những cây hoa vi diệu cõi trời và cây như ý cõi trời. Chúng được trang nghiêm với vô số châu báu cõi trời, có màu sắc khác nhau và tươi đẹp lạ thường. Treo ở trên đó là hàng trăm loại trân châu anh lạc. Lại treo y phục tơ lụa cùng muôn loại y phục khác nữa. Thân cây và cành có màu đỏ rực, lá được làm bằng vàng và bạc. Lại có vô số cây tỏa mùi hương vi diệu, cây hoa thù thắng vi diệu, và vô số ao tắm báu với một tỷ tạp sắc diệu hoa đầy khắp trong đó.
Khi xuất hiện các việc như thế, Hư Không Tạng Bồ-tát bạch Thế Tôn kia rằng:
‘[Bạch Thế Tôn!] Tại sao đến giờ Quán Tự Tại Bồ-tát kia vẫn còn chưa đến?’
Đức Phật kia bảo:
‘Thiện nam tử! Sau khi Quán Tự Tại Bồ-tát kia từ cung điện của Đại Lực Phi Thiên Vương rời khỏi, có một nơi khác mà không ai có thể đến, tên gọi là Hắc Ám.
Thiện nam tử! Ở nơi tối tăm kia, ánh sáng của mặt trời và mặt trăng không thể rọi đến, nhưng ở đó có như ý bảo, tên là Tùy Nguyện, và luôn phát ra ánh sáng để chiếu soi. Ở nơi kia có vô số tỷ quỷ tiệp tật đang trú trong đó. Khi chúng thấy Quán Tự Tại Bồ-tát vào trong ấy, tâm sanh hoan hỷ, vui mừng hớn hở và chạy đến nghênh tiếp Quán Tự Tại Bồ-tát.
Họ cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Bồ-tát và thưa hỏi rằng:
‘Nay Đức Bồ-tát không mệt mỏi khi đến đây chứ? Ngài đã lâu rồi không ghé đến nơi tối tăm này.’
Quán Tự Tại Bồ-tát nói rằng:
‘Đó là bởi ta cần cứu độ các hữu tình.’
Khi ấy, chúng quỷ tiệp tật cùng với chúng quỷ bạo ác kia lấy tòa sư tử vàng báu ở cõi trời để mời Đức Bồ-tát ngồi:
Lúc đó, Đức Bồ-tát vì chúng quỷ tiệp tật cùng với chúng quỷ bạo ác kia mà thuyết Pháp:
‘Các ông hãy lắng nghe. Có một Kinh điển Đại Thừa tên là Trang Nghiêm Bảo Vương. Nếu ai nghe được dù chỉ bốn câu kệ mà có thể thọ trì đọc tụng cùng giảng giải nghĩa lý và tâm thường tư duy, thì phước đức đạt được sẽ không có hạn lượng.
Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lượng của hết thảy vi trần, nhưng thiện nam tử, nếu ai có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này, thì ta chẳng thể nào đếm hết số lượng phước đức mà người ấy có được.
Ví như nước trong biển lớn, ta có thể đếm mỗi giọt nước trong đó; nhưng nếu ai có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh này, thì ta chẳng thể nào đếm hết số lượng phước đức mà người ấy có được. Không chỉ riêng ta ở nơi tối tăm này chẳng thể nói hết, cho dù 12 Hằng Hà sa số Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, tất cả đều cùng hội họp một nơi và trải qua 12 kiếp, thì cũng chẳng thể nào nói hết số lượng phước đức như vậy.
Thiện nam tử! Lại ví như tất cả người trong bốn châu lớn đều sửa sang nhà của họ đang sống thành một tinh xá. Ở trong đó, họ dùng vàng báu cõi trời để xây 1.000 ngôi tháp. Trong một ngày thì thảy đều hoàn tất, rồi họ dùng mọi thứ để cúng dường. Tuy nhiên, phước đức có được không bằng phước đức của người có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh này.
Thiện nam tử! Ví như năm con sông lớn đổ vào biển cả, sự lưu chuyển của chúng chẳng có cùng tận. Cũng như vậy, nếu như ai có thể thọ trì bốn câu kệ trong Kinh Đại Thừa này, thì phước đức có được cũng như nước sông chảy vào biển và sẽ là vô tận.’
Khi đó, chúng quỷ tiệp tật cùng với chúng quỷ bạo ác kia thưa với Quán Tự Tại Bồ-tát rằng:
‘[Thưa Đức Bồ-tát!] Nếu có hữu tình nào mà có thể biên chép Kinh Đại Thừa này, thì số lượng phước đức có được là bao nhiêu?’
‘Thiện nam tử! Phước đức có được là không có ranh giới. Nếu ai có thể biên chép Kinh này thì đồng như biên chép 84.000 Pháp tạng–không chút sai khác. Người này sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, thống nhiếp bốn châu lớn, có diện mạo đoan nghiêm, và sẽ có 1.000 con trai vây quanh. Tất cả quân địch ngoại bang đều tự nhiên thần phục.
Nếu ai có thể thường nhớ nghĩ đến danh hiệu của Kinh này, người ấy sẽ mau được giải thoát khổ ách của luân hồi, xa lìa già chết cùng ưu sầu khổ não. Ở những nơi sanh ra vào đời sau, họ sẽ nhớ việc đời trước. Trên thân thường có mùi thơm hương đàn ở Đỉnh núi Ngưu Đầu. Trong miệng thường tỏa ra mùi hương của hoa sen xanh. Họ có thân tướng viên mãn và đầy đủ uy thế lớn.’
Khi thuyết Pháp này xong, có các vị quỷ tiệp tật cùng với các vị quỷ bạo ác đắc Quả Nhập Lưu, và có vài trong số đó đắc Quả Nhất Lai.
Sau đó, họ nói lời như vầy:
‘Cúi mong Bồ-tát hãy ở nơi này và chớ đi nơi khác. Nay chúng con sẽ ở nơi tối tăm này mà lấy vàng báu cõi trời để xây tháp và lại dùng vàng báu để tạo lập nơi kinh hành.’
Lúc ấy Quán Tự Tại Đại Bồ-tát nói rằng:
‘Ta vì phải cứu độ vô số hữu tình và khiến họ đều sẽ đắc Phật Đạo nên mới muốn đi đến nơi khác.’
Khi đó, chúng quỷ tiệp tật cùng với chúng quỷ bạo ác kia, ai nấy đều cúi đầu, lấy tay kê lên má và bồi hồi suy nghĩ.
Rồi họ nói với nhau lời như thế này:
‘Bây giờ Quán Tự Tại Đại Bồ-tát sẽ rời khỏi nơi này. Về sau ai sẽ là người có thể thuyết diệu Pháp cho chúng ta đây?’
Khi Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rời khỏi, tất cả quỷ tiệp tật và quỷ bạo ác kia đều đi theo đưa tiễn.
Lúc đó, Quán Tự Tại Đại Bồ-tát bảo họ rằng:
‘Các vị đã tiễn rất xa rồi, hãy nên trở về đi.’
Lúc ấy, chúng quỷ tiệp tật cùng với chúng quỷ bạo ác kia cúi đầu đảnh lễ sát đất với trán chạm vào chân của Quán Tự Tại Đại Bồ-tát, rồi họ trở về chốn cũ.
Lúc bấy giờ, Quán Tự Tại Đại Bồ-tát bay lên hư không như ngọn lửa và thẳng đến cung trời. Khi đã đến cung trời kia, ngài hiện thân làm Phạm Chí. Trong thiên chúng ở đó có một vị thiên tử, tên là Diệu Nghiêm Nhĩ và phải luôn chịu khổ do quả báo bần cùng. Khi đó, Phạm Chí do Quán Tự Tại Bồ-tát hóa thân, đi đến chỗ của vị thiên tử kia.
Lúc đến nơi, ngài nói rằng:
‘Tôi đang bị đói lại còn bị khát nữa.’
Khi ấy, vị thiên tử kia nghẹn ngào than khóc mà nói với Phạm Chí rằng:
‘Hiện tôi rất nghèo túng và chẳng có vật gì để dâng cho ngài cả.’
Phạm Chí nói rằng:
‘Tôi đã bỏ công đến đây, cho dù là ít đến đâu thì ngài cũng nên biếu một chút gì.’
Lúc ấy, vị thiên tử kia vào trong cung và cố gắng tìm các đồ vật. Bỗng nhiên thấy có những cái rương báu lớn đựng đầy những kỳ trân dị bảo ở trong đó. Lại có những rương báu đựng đầy thức ăn nước uống ngon lạ. Lại có các thượng diệu y phục đầy khắp trong cung.
Khi ấy vị thiên tử kia suy nghĩ rằng:
‘Hiện giờ vị Phạm Chí ở ngoài cửa nhất định là một người chẳng thể nghĩ bàn, nên mới khiến mình được những phước lợi phi thường này.’
Kế đó, vị thiên tử thỉnh mời đại Phạm Chí kia vào trong cung của mình và cầm châu báu vi diệu cõi trời cùng thượng vị ẩm thực cõi trời để dâng lên cúng dường.
Khi thọ nhận xong, Phạm Chí kia chú nguyện rằng:
‘Cầu cho ngài sẽ được an vui và sống lâu.’
Khi ấy vị thiên tử kia thưa với Phạm Chí rằng:
‘Hiền giả! Ngài từ đâu đến đây?’
Phạm Chí nói rằng:
‘Ta từ trong Đại tinh xá Kỳ Viên mà đến đây.’
Vị thiên tử hỏi rằng:
‘Nơi đó như thế nào?’
Phạm Chí bảo rằng:
‘Trong Tinh xá Kỳ Viên, đất đai nơi đó thanh tịnh và xuất hiện những cây như ý được trang nghiêm bằng như ý châu từ cõi trời. Lại hiện ra đủ mọi như ý châu yêu thích. Lại hiện ra đủ mọi ao báu. Lại có vô số đại chúng với giới đức uy nghiêm và đầy đủ đại trí tuệ cũng xuất hiện trong ấy. Nơi đó có một Đức Phật, hiệu là Biến Thắng Như Lai. Các thánh chúng và chư thiên cũng trú nơi đó nên mới xuất hiện ra những sự biến hóa như vậy.’
Khi ấy vị thiên tử kia thưa rằng:
‘Hiền giả! Xin hãy nói sự thật, đại Phạm Chí ngài là trời hay là người vậy? Hiền giả! Tại sao hôm nay lại xuất hiện những điều kỳ diệu như thế?’
Phạm Chí liền nói rằng:
‘Ta chẳng phải trời mà cũng chẳng phải người. Ta là một vị Bồ-tát muốn cứu độ hết thảy hữu tình, khiến cho họ đều thấy Phật Đạo quảng đại.’
Khi vị thiên tử này nghe xong, liền cầm mũ trời báu vi diệu cùng hoa tai trang nghiêm để dâng lên cúng dường và nói kệ rằng:
‘Con nay gặp được công đức địa
Xa lìa tội chướng cùng cấu dơ
Vừa mới gieo trồng nơi phước điền
Liền được quả báo thù thắng thay’
Lúc vị thiên tử này nói lên bài kệ ấy và sự hóa độ của Phạm Chí kia cũng đã hoàn mãn, thế nên Bồ-tát rời thiên cung và liền đi tới nước Sư Tử. Khi đến nơi, ngài đứng ở trước chúng quỷ nữ bạo ác với tướng mạo hóa hiện đoan nghiêm, sắc tướng thù đặc và vi diệu hiếm thấy. Khi chúng quỷ nữ bạo ác thấy dung mạo như thế thì liền khởi lòng ham muốn.
Với sự hân hoan cùng ái mộ, họ đến gần và nói rằng:
‘Anh có thể làm phu quân của em không? Em là đồng nữ và vẫn chưa sánh duyên với ai, mong anh hãy làm phu quân của em. Bây giờ anh đã đến đây, xin chớ dời bước đi nơi khác. Em như người không có chủ, mong anh có thể làm người chủ của em. Em lại như căn phòng tối, mong anh hãy làm ngọn đèn sáng của em. Hiện chỗ của em có thức ăn nước uống, y phục, và rất nhiều kho chứa đồ. Lại có vườn trái cây xinh tươi và ao tắm mát mẻ.’
Bồ-tát bảo chúng quỷ nữ bạo ác rằng:
‘Nay các cô hãy lắng nghe ta nói.’
Chúng quỷ nữ bạo ác nói rằng:
‘Dạ vâng, chúng em rất thích nghe những gì anh bảo.’
‘Hôm nay ta sẽ vì các cô mà thuyết Pháp Tám Chánh Đạo. Lại vì các cô mà thuyết Pháp Bốn Thánh Đế.’
Khi chúng quỷ nữ bạo ác nghe Pháp đó xong, họ liền chứng Quả. Có vị đắc Quả Nhập Lưu. Hoặc có vị đắc Quả Nhất Lai. Họ chẳng còn khổ bức của tham sân si, không khởi lòng ác và không còn có ý nghĩ giết hại. Tâm họ yêu mến Pháp và vui thích trong giới luật.
Sau đó, họ nói lời như vầy:
‘Từ nay về sau, chúng con sẽ không bao giờ sát sanh. Chúng con sẽ sống như những người trì giới ở Nam Châu Thắng Kim và dùng thức ăn nước uống thanh tịnh. Kể từ bây giờ, chúng con sẽ sống y như họ vậy.’
Khi chúng quỷ nữ bạo ác đã không còn tạo nghiệp ác và họ có thể tu học thọ trì, Quán Tự Tại Đại Bồ-tát rời khỏi nước Sư Tử, rồi đi đến Đại thành Lộc Dã. Ở thành kia có chỗ dơ bẩn và hôi thối, trong đó có vô số tỷ loại côn trùng và con giòi đang sống nơi ấy.
Quán Tự Tại Bồ-tát vì muốn cứu độ các hữu tình kia, nên ngài hóa hiện thành một con ong mà bay đến đó và trong miệng phát ra âm thanh như vầy:
‘♪ Quy Y Phật!’
Các loài trùng kia nghe theo âm thanh đó và đều xưng niệm như tiếng ấy. Tuy sở chấp nơi thân kiến cùng các tùy phiền não của loài hữu tình kia như núi Diệu Cao, nhưng do bởi uy lực nên đều bị chày trí tuệ kim cang phá hủy hết sạch. Liền đó, chúng được vãng sanh về Thế giới Cực Lạc và đều trở thành Bồ-tát với đồng tên gọi là Diệu Hương Khẩu.
Khi đã cứu độ các hữu tình kia xong, Bồ-tát rời Đại thành Lộc Dã và đi đến nước Thiện Thắng. Lúc bấy giờ ở trong nước kia bị hạn hán suốt 12 năm ròng. Dân chúng cùng các loài hữu tình vì bị đói khát làm cho khổ não bức bách nên ăn thịt lẫn nhau.
Khi ấy trong tâm của Quán Tự Tại Bồ-tát tư duy rằng:
‘Ta phải dùng phương tiện gì để cứu những chúng sanh này?’
Lúc ấy, Quán Tự Tại Bồ-tát giáng xuống những cơn mưa. Trước tiên, ngài mưa xuống nước để dẹp trừ cơn hạn hán. Tiếp đến, ngài mưa xuống muôn loại thùng đựng và mỗi thùng đựng đều chứa đầy ẩm thực ngon lạ trong đó. Khi ấy, dân chúng kia được các thức ăn nước uống như thế và thảy đều no đủ. Kế đó, Bồ-tát lại mưa xuống gạo, đậu, và những vật dụng khác để cho dân chúng kia đều tùy ý mãn túc.
Lúc bấy giờ, hết thảy dân chúng trong nước Thiện Thắng đều kinh ngạc và xem là việc chưa từng có. Lúc ấy, họ nhóm họp lại một nơi.
Khi đã tụ tập đông đủ, ai nấy đều nói rằng:
‘Nay việc này là sao? Đây có phải là do uy lực của trời không?’
Khi ấy ở giữa đại chúng kia có một ông lão rất già, lưng còng, tay cầm gậy, và đã sống đến vô số trăm ngàn năm.
Lão ông bảo dân chúng rằng:
‘Đây chẳng phải là uy lực của trời đâu. Nay hiện ra điềm lành đó, nhất định là uy đức thần lực của Quán Tự Tại Bồ-tát biến hiện ra.’
Dân chúng hỏi rằng:
‘Làm thế nào mà Quán Tự Tại Bồ-tát kia có thể hiện ra các điềm lành đó?’
Lão ông liền nói rằng:
‘Công đức thần lực của Thánh Quán Tự Tại kia:
– có thể làm ngọn đèn sáng cho những ai mù lòa,
– có thể che chở cho những ai đang rơi vào đám lửa cháy phừng,
– có thể hiện làm con sông cho những ai khát nước,
– có thể ban điều không sợ hãi cho những ai đang sống trong sợ hãi,
– có thể làm lương y cho những ai mắc bệnh khổ,
– có thể làm cha mẹ cho những ai đang thọ khổ,
– có thể khiến chúng sanh trong Địa ngục Vô Gián thấy Đạo tịch diệt,
– và có thể khiến hết thảy chúng sanh trong thế gian được công đức, lợi ích và an lạc.
Nếu lại có người niệm danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ-tát, người này sẽ xa rời tất cả sự thống khổ của luân hồi.’
Khi dân chúng nghe xong thì thảy đồng tán dương:
‘Lành thay!’
‘Nếu ai có thể kiến lập một Pháp đàn hình vuông ở trước tượng của Quán Tự Tại Bồ-tát và thường xuyên lấy hương hoa để cúng dường Quán Tự Tại Bồ-tát, người này trong tương lai sẽ được sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương và có đầy đủ bảy báu, gồm có: kim luân báu, voi trắng báu, ngựa xanh báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, chủ tạng báu, và chủ binh báu.
Nếu lại có người có thể cúng dường Quán Tự Tại Bồ-tát một đóa hoa, thì thân thể người này sẽ tỏa ra mùi hương vi diệu và mọi nơi sanh ra đều được thân tướng viên mãn.’
Khi ông lão này đã nói về công đức thần lực của Quán Tự Tại Bồ-tát xong, lúc đó dân chúng, ai nấy đều trở về nơi trú xứ của mình và lão ông cũng trở về chốn cũ.
Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-tát bay lên hư không và suy nghĩ rằng:
‘Ta đã lâu không gặp Biến Thắng Như Lai. Bây giờ ta nên đi đến Tinh xá Kỳ Viên để gặp Ngài.’
Khi đó, Quán Tự Tại Bồ-tát liền đi đến tinh xá kia và thấy có vô số tỷ trời, rồng, quỷ tiệp tật, tầm hương thần, phi thiên, kim sí điểu, nghi thần, đại mãng xà, người và phi nhân. Lại có vô số tỷ chư Bồ-tát cũng đều đến hội họp.
Lúc bấy giờ Hư Không Tạng Bồ-tát bạch Đức Phật kia rằng:
‘Bạch Thế Tôn! Vị Bồ-tát đang đến là ai?’
Đức Phật kia bảo:
‘Thiện nam tử! Đó là Quán Tự Tại Đại Bồ-tát.’
Hư Không Tạng Bồ-tát nghe xong và giữ lặng yên.
Khi Quán Tự Tại Bồ-tát nhiễu quanh Đức Phật kia ba vòng, rồi ngồi ở bên trái.
Lúc ấy Đức Thế Tôn kia nói lời hỏi thăm rằng:
‘Ông không mệt mỏi chứ! Thiện nam tử! Ông đến những nơi khác giáo hóa, việc ấy như thế nào?’
Quán Tự Tại Bồ-tát liền thuật lại việc giáo hóa của mình.
‘Con đã cứu độ các hữu tình như vầy như vầy!’
Khi Hư Không Tạng Bồ-tát nghe xong, trong lòng kinh ngạc chưa từng có:
‘Nay ta đã thấy Quán Tự Tại Bồ-tát, vị Bồ-tát có thể cứu độ chúng sanh ở những quốc độ như thế, khiến cho họ thấy Như Lai, và làm cho các chúng sanh ở những quốc độ như vậy đều trở thành Bồ-tát.’
Lúc ấy, Hư Không Tạng Bồ-tát đứng ở trước Quán Tự Tại Bồ-tát và hỏi rằng:
‘Nhân Giả đi hóa độ như thế, Nhân Giả có mệt không?’
Ngài Quán Tự Tại nói rằng:
‘Tôi không mệt.’
Khi hỏi xong, Hư Không Tạng Bồ-tát giữ lặng yên.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn kia bảo các thiện nam tử rằng:
‘Các ông hãy lắng nghe, Ta nay sẽ thuyết Pháp Sáu Độ cho các ông.
Này các thiện nam tử! Phàm ai muốn làm Bồ-tát thì trước tiên nên tu hành Bố Thí Độ, rồi sau đó tu hành Trì Giới Độ, Nhẫn Nhục Độ, Tinh Tấn Độ, Thiền Định Độ, và Diệu Tuệ Độ. Nếu được như thế, họ sẽ thành tựu viên mãn và đầy đủ Sáu Độ.’
Khi thuyết Pháp xong, Đức Phật kia giữ lặng yên. Khi ấy, các đại chúng trong Pháp hội kia, mỗi vị đều cáo lui và trở về bổn xứ của mình. Chư Bồ-tát nơi đó cũng cáo lui và trở về cõi Phật của họ.”