Kinh Vô Lượng Thọ ♦ Quyển thượng
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 12.000 vị đại Bhikṣu [bíc su] ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá. Tất cả đại thánh đều đã chứng thần thông tự tại.
Tên các ngài là:
– Tôn giả Giải Bổn Tế,
– Tôn giả Mã Thắng,
– Tôn giả Chánh Ngữ,
– Tôn giả Đại Hiệu,
– Tôn giả Nhân Hiền,
– Tôn giả Ly Cấu,
– Tôn giả Danh Văn,
– Tôn giả Thiện Thật,
– Tôn giả Cụ Túc,
– Tôn giả Ngưu Tướng,
– Tôn giả Mộc Qua Lâm Ẩm Quang,
– Tôn giả Tượng Ẩm Quang,
– Tôn giả Hà Ẩm Quang,
– Tôn giả Đại Ẩm Quang,
– Tôn giả Thu Lộ Tử,
– Tôn giả Đại Thải Thục Thị,
– Tôn giả Phòng Tú,
– Tôn giả Đại Tất,
– Tôn giả Đại Tiễn Thế Chủng Nam,
– Tôn giả Tiểu Lộ,
– Tôn giả Mãn Từ Tử,
– Tôn giả Vô Diệt,
– Tôn giả Thất Tú,
– Tôn giả Kiên Phục,
– Tôn giả Diện Vương,
– Tôn giả Quả Thừa,
– Tôn giả Thiện Dung,
– Tôn giả Hỷ Lạc,
– Tôn giả Thiện Lai,
– Tôn giả Phú Chướng,
– Tôn giả Khánh Hỷ,
– và các vị thượng thủ khác như thế.
Lại có chư đại Bồ-tát cùng hội họp, gồm có Phổ Hiền Bồ-tát, Diệu Cát Tường Bồ-tát, Từ Thị Bồ-tát, và các vị đại Bồ-tát khác như vậy.
Tất cả chư Bồ-tát trong kiếp Hiền này cũng đều đến hội họp.
Lại có 16 vị Chánh Sĩ, gồm có:
– Hiền Hộ Bồ-tát,
– Thiện Tư Nghị Bồ-tát,
– Tuệ Biện Tài Bồ-tát ①,
– Tín Tuệ Bồ-tát,
– Không Vô Bồ-tát,
– Thần Thông Hoa Bồ-tát,
– Quang Anh Bồ-tát,
– Tuệ Thượng Bồ-tát,
– Trí Tràng Bồ-tát,
– Tịch Căn Bồ-tát,
– Nguyện Tuệ Bồ-tát,
– Hương Tượng Bồ-tát,
– Bảo Anh Bồ-tát,
– Trung Trụ Bồ-tát,
– Chế Hành Bồ-tát,
– và Giải Thoát Bồ-tát.
Hết thảy các ngài đều tu theo đức của Đại sĩ Phổ Hiền. Đầy đủ vô lượng hạnh nguyện của chư Bồ-tát và an trụ trong tất cả Pháp công đức. Các ngài du hí đến mười phương và khéo dùng quyền xảo phương tiện. Nhập Phật Pháp tạng để đến cứu cánh bờ kia và hiện thành đẳng giác trong vô lượng thế giới.
Lúc bấy giờ, Đức Bồ-tát trụ ở trời Hỷ Túc và rộng tuyên dương Chánh Pháp. Rồi ngài rời thiên cung và giáng thần vào thai mẹ. Sau đó, từ hông bên phải hạ sanh và đi bảy bước. Khi ấy, ánh hào quang sáng rực chiếu khắp mười phương và vô lượng Phật độ chấn động sáu cách.
Ngài cất lên tiếng tự xưng rằng:
“Ta sẽ ở thế gian làm bậc Vô Thượng Tôn!”
Lúc đó, Năng Thiên Đế và Phạm Vương đến hầu cận phụng sự. Trời người kính ngưỡng quy y.
Đức Bồ-tát thị hiện học toán số văn chương, bắn cung cưỡi ngựa, đạo thuật uyên bác, và thông suốt mọi sách điển. Ngài hay vui chơi ở hậu viên và luận võ thi tài. Tuy ở trong cung điện nhưng không hề nhiễm sắc vị. Khi thấy sanh già bệnh chết, Đức Bồ-tát ngộ lý vô thường, rồi từ bỏ quốc gia, tài bảo, và ngôi vị để vào rừng học Đạo. Ngài cưỡi trên lưng ngựa trắng. Sau đó, ngài lấy mũ báu và xâu chuỗi anh lạc gửi trở về.
Lúc ấy, Đức Bồ-tát cởi xuống y bào và khoác lên Pháp y, rồi cạo bỏ râu tóc và tĩnh tọa sáu năm khổ hạnh. Bởi thị hiện trong đời năm trược nên cũng tùy thuận chúng sanh mà thân thể có bụi dơ. Sau đó ngài đi đến bờ sông Bất Nhạo Trước để tắm gội. Khi ấy, chư thiên ấn nhánh cây xuống để ngài vịn ra khỏi dòng nước và các loài chim linh thiêng cũng bay theo đến Đạo Tràng. Lúc đó có mục đồng dâng lên cỏ để biểu thị cho sự cát tường, phước tuệ sắp viên mãn. Đức Bồ-tát từ bi tiếp thọ, trải làm tòa và ngồi xếp bằng với tư thế hoa sen ở dưới gốc cây. Khi sắp thành Đạo, thân Bồ-tát phóng đại quang minh. Ma vương hay được nên thống lãnh chúng ma quyến thuộc đến thử thách và quấy nhiễu. Tuy nhiên, ngài dùng trí lực nên khiến đều hàng phục. Sau đó, Đức Bồ-tát đắc diệu Pháp và thành Tối Chánh Giác.
Bấy giờ Năng Thiên Đế và Phạm Vương thỉnh chuyển Pháp luân. Rồi Ngài bước theo hạnh của Phật, hống tiếng Phật, đánh trống Pháp, thổi loa Pháp, cầm kiếm Pháp, dựng Pháp tràng, nổi sấm Pháp, chớp Pháp điện, rưới mưa Pháp, và diễn Pháp thí. Đức Phật thường dùng Pháp âm để giác ngộ thế gian. Hào quang chiếu khắp vô lượng Phật độ, tất cả thế giới đều chấn động sáu cách, và tổng nhiếp cõi ma. Khi đó ma cung lung lay, chúng ma khiếp sợ và không ai là chẳng quy phục. Đức Phật xé tan lưới tà, tiêu diệt tà kiến, tống đuổi trần lao, phá hủy hố dục, trang nghiêm và hộ trì Pháp thành. Ngài khai mở Pháp môn, tẩy sạch nhiễm ô, hiển hiện tự tánh thanh tịnh cho quần mê và làm cho Chánh Pháp lưu truyền, vẻ vang Phật Pháp.
Lúc bấy giờ, Đức Phật vào thành khất thực để làm nơi phước điền công đức cho chúng sanh gieo trồng. Ngài mỉm cười và muốn tuyên thuyết Chánh Pháp. Ngài dùng Pháp dược để chữa trị ba thứ khổ, hiển hiện Đạo ý, và thị hiện vô lượng công đức. Ngài lại vì chư Bồ-tát mà thọ ký cho họ sẽ thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau cùng, Ngài thị hiện diệt độ để độ thoát vô lượng chúng sanh, tiêu trừ các lậu, và giúp chúng sanh gieo trồng căn lành.
Đức Phật có đầy đủ công đức, vi diệu khó suy lường. Ngài lại du hành đến các quốc độ của chư Phật để hiện khắp giáo Pháp. Sự tu hành của Ngài đều thanh tịnh không dơ. Đây ví như nhà huyễn thuật biến hiện những dị tượng lạ thường. Hiện làm người nam hay làm người nữ, hoặc hiện ra bất kỳ thân hình nào và ở nơi bổn học đều thông đạt, tùy ý tự tại.
Chư Bồ-tát này đây cũng lại như vậy. Tu học, thực hành, thông suốt tất cả pháp, an trụ nơi Chân Đế, thương xót và hóa độ tất cả chúng sanh. Các ngài hóa hiện khắp vô số Phật độ mà chưa từng kiêu mạn hay buông lung. Tất cả Kinh điển, các hạnh của Bồ-tát và các Pháp như vậy thảy đều thông suốt. Thế nên danh xưng và Đạo hạnh vang khắp mười phương và luôn được vô lượng chư Phật hộ niệm. Bồ-tát trụ nơi Phật an trụ, xiển dương giáo Pháp mà bậc Đại Thánh đã an lập. Dưới sự giáo hóa của Như Lai, các ngài khéo thực hành Đạo Bồ-tát, làm bậc đại sư, tuyên dương Chánh Đạo, và dùng trí tuệ thâm sâu của thiền định để khai đạo chúng sanh si mê. Thông đạt các pháp tánh, thấu rõ tướng của chúng sanh và cõi nước của họ.
Khi Bồ-tát cúng dường chư Phật, thân liền hiện ra như tia điện chớp. Bồ-tát lại khéo tu học Pháp vô úy, hiểu rõ các pháp như huyễn, xé tan vòng lưới ma, và thoát khỏi mọi sự ràng buộc. Nơi hạnh làm siêu việt hơn hàng Thành Văn và bậc Duyên Giác; đắc Không, Vô Tướng, và Vô Nguyện Chánh Định. Với thiện xảo phương tiện, Bồ-tát hiện ra ở cả ba thừa, rồi thị hiện diệt độ ở bậc trung và hạ căn. Lại biết rõ các pháp đều không tạo tác, không chỗ có, không sanh, không diệt, nên được sự bình đẳng của pháp. Các căn thanh tịnh, trí tuệ trọn đủ, đắc vô lượng tổng trì và trăm ngàn chánh định. Trụ sâu trong chánh định quảng đại, vào sâu Pháp tạng của Bồ-tát, và đắc Phật Hoa Nghiêm Chánh Định. Sau đó, tuyên dương và diễn nói tất cả Kinh điển.
Lúc ở trong định, Bồ-tát thấy vô lượng chư Phật hiện ra ở trước họ. Trong thời gian của một niệm, họ có thể ở cùng khắp mọi nơi để cứu hộ chúng sanh ra khỏi ách nạn. Lại khéo phân biệt và hiển thị các Pháp chân thật nên được trí tuệ biện tài của chư Như Lai, có thể thấu rõ tất cả ngôn ngữ của chúng sanh để giáo hóa hết thảy. Tâm của Bồ-tát siêu vượt ra khỏi các pháp hữu vi của thế gian và luôn an trụ nơi Chánh Đạo. Đối với hết thảy vạn vật đều tùy ý tự tại. Bồ-tát lại vì chúng sanh mà tình nguyện làm người bạn chưa hề quen biết và gánh vác nghiệp tội thâm trọng giùm họ.
Bồ-tát như vậy luôn thọ trì Pháp tạng sâu xa của Như Lai. Hộ trì chủng tánh Phật và chẳng để đoạn tuyệt. Bồ-tát lại khởi lòng đại bi, thương xót chúng sanh và diễn giải phương tiện, khiến họ có được Pháp nhãn, dứt trừ ba đường ác, và mở cánh cửa chốn lành. Bồ-tát luôn vì chúng sanh mà thuyết Pháp và không cần phải đợi thỉnh mời. Bồ-tát ví như người con hiếu thảo yêu kính cha mẹ. Bồ-tát xem chúng sanh như bản thân mình. Vì thế hết thảy thiện căn đều rộng hồi hướng nên thành tựu được trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn và vô lượng công đức của chư Phật.
Lúc bấy giờ có vô lượng Đại Sĩ, không thể tính đếm kể số Bồ-tát như vậy, đều đồng đến hội họp. Khi ấy các căn của Thế Tôn hòa vui, sắc tướng thanh tịnh và nét mặt tươi sáng.
Bấy giờ Tôn giả Khánh Hỷ nương uy thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo lộ vai phải, hai gối quỳ, chắp tay, và bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Hôm nay các căn của Ngài hòa vui, sắc tướng thanh tịnh và nét mặt tươi sáng. Sáng rõ như gương, trong ngoài ảnh hiện thông suốt. Uy dung chói lọi, siêu tuyệt vô lượng. Từ hồi nào đến giờ, con chưa từng thấy được sự thù thắng vi diệu như hôm nay.
Kính thưa bậc Đại Thánh, tâm con khởi nghĩ rằng:
– Nay Đức Thế Tôn trụ nơi Pháp kỳ diệu.
– Nay Đức Thế Hùng trụ nơi chư Phật trụ.
– Nay Đức Thế Nhãn trụ nơi hạnh của bậc đạo sư.
– Nay Đức Thế Anh trụ nơi Đạo tối thắng.
– Nay Đức Thiên Tôn hành Như Lai đức.
Chư Phật quá khứ, hiện tại, cùng vị lai đều tương niệm lẫn nhau. Có phải nay Thế Tôn cũng đang tưởng niệm chư Phật chăng? Và vì sao uy thần của Ngài sáng chói như vậy?”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Này Khánh Hỷ! Có phải chư thiên dạy ông đến hỏi Như Lai? Hay ông hỏi uy nhan của Như Lai là do trí tuệ tự thấy?”
Ngài Khánh Hỷ thưa với Phật rằng:
“Thưa Thế Tôn! Không có chư thiên đến dạy con, mà do con tự dùng trí tuệ để hỏi nghĩa ấy.”
Đức Phật bảo:
“Lành thay, Khánh Hỷ! Điều ông hỏi rất hay. Ông có trí tuệ thâm sâu và biện tài rất vi diệu. Ông vì thương xót chúng sanh nên khéo hỏi nghĩa ý như vậy.
Như Lai vì lòng đại bi vô tận với chúng sanh trong ba cõi nên mới thị hiện ở đời, để xiển dương giáo Pháp, cứu độ chúng sanh và chỉ dẫn sự lợi ích chân thật. Chư Phật xuất hiện ở thế gian hiếm như hoa linh thụy nở, dù cả vô lượng ức kiếp cũng khó được gặp thấy. Điều ông hỏi hôm nay sẽ có lợi ích rất lớn cho hàng trời người.
Này Khánh Hỷ! Nên biết rằng, chánh giác của Như Lai, trí tuệ ấy khó suy lường, có thể chỉ dẫn chúng sanh đến bờ giải thoát. Tuệ kiến đó là vô ngại, không gì có thể ngăn trừ. Với chỉ một bữa ăn, thọ mạng của Như Lai có thể sống đến trăm ngàn ức kiếp, vô lượng vô số, và còn hơn số đó nữa. Cho dù thời gian ấy đã hết, các căn của Như Lai vẫn hòa vui, cũng chẳng bị suy hoại, sắc tướng không biến đổi, và uy dung không hề khác đi.
Vì sao thế? Bởi định tuệ của Như Lai viên mãn đến tột cùng và trong tất cả pháp đều được tự tại.
Hãy lắng nghe, Khánh Hỷ! Ta nay sẽ thuyết giảng cho ông.”
Ngài Khánh Hỷ thưa rằng:
“Dạ vâng! Con vui thích muốn nghe.”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Vào thuở quá khứ xa xưa vô lượng vô số kiếp chẳng thể nghĩ bàn, lúc ấy có Đức Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Nhiên Đăng Như Lai ②. Ngài giáo hóa độ thoát vô lượng chúng sanh, khiến họ đều đắc Đạo rồi mới vào tịch diệt.
– Kế đến có Như Lai, hiệu là Quang Viễn.
– Kế đến là Nguyệt Quang Như Lai.
– Kế đến là Đàn Hương Như Lai.
– Kế đến là Thiện Sơn Vương Như Lai.
– Kế đến là Diệu Cao Thiên Quan Như Lai.
– Kế đến là Diệu Cao Đẳng Diệu Như Lai.
– Kế đến là Nguyệt Sắc Như Lai.
– Kế đến là Chánh Niệm Như Lai.
– Kế đến là Ly Cấu Như Lai.
– Kế đến là Vô Trước Như Lai.
– Kế đến là Long Thiên Như Lai.
– Kế đến là Dạ Quang Như Lai.
– Kế đến là An Minh Đảnh Như Lai.
– Kế đến là Bất Động Địa Như Lai.
– Kế đến là Lưu Ly Diệu Hoa Như Lai.
– Kế đến là Lưu Ly Kim Sắc Như Lai.
– Kế đến là Kim Tạng Như Lai.
– Kế đến là Diễm Quang Như Lai.
– Kế đến là Diễm Căn Như Lai.
– Kế đến là Địa Chủng Như Lai.
– Kế đến là Nguyệt Tượng Như Lai.
– Kế đến là Nhật Âm Như Lai.
– Kế đến là Giải Thoát Hoa Như Lai.
– Kế đến là Trang Nghiêm Quang Minh Như Lai.
– Kế đến là Hải Giác Thần Thông Như Lai.
– Kế đến là Thủy Quang Như Lai.
– Kế đến là Đại Hương Như Lai.
– Kế đến là Ly Trần Cấu Như Lai.
– Kế đến là Xả Yếm Ý Như Lai.
– Kế đến là Bảo Diễm Như Lai.
– Kế đến là Diệu Đảnh Như Lai.
– Kế đến là Dũng Lập Như Lai.
– Kế đến là Công Đức Trì Tuệ Như Lai.
– Kế đến là Tế Nhật Nguyệt Quang Như Lai.
– Kế đến là Nhật Nguyệt Lưu Ly Quang Như Lai.
– Kế đến là Vô Thượng Lưu Ly Quang Như Lai.
– Kế đến là Tối Thượng Thủ Như Lai.
– Kế đến là Giác Hoa Như Lai.
– Kế đến là Nguyệt Minh Như Lai.
– Kế đến là Nhật Quang Như Lai.
– Kế đến là Hoa Sắc Vương Như Lai.
– Kế đến là Thủy Nguyệt Quang Như Lai.
– Kế đến là Trừ Si Minh Như Lai.
– Kế đến là Độ Cái Hành Như Lai.
– Kế đến là Tịnh Tín Như Lai.
– Kế đến là Thiện Tú Như Lai.
– Kế đến là Uy Thần Như Lai.
– Kế đến là Pháp Tuệ Như Lai.
– Kế đến là Loan Âm Như Lai.
– Kế đến là Sư Tử Âm Như Lai.
– Kế đến là Long Âm Như Lai.
– Kế đến là Xử Thế Như Lai.
Và sau khi các Đức Phật như vậy lần lượt diệt độ, lúc bấy giờ tiếp đến có Đức Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.”
“Khi ấy có một vị quốc vương, sau khi nghe Phật thuyết Pháp, liền sanh tâm hoan hỷ và phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Rồi ngài xả bỏ quốc gia và vương vị để trở thành Đạo Nhân, hiệu là Pháp Tạng, là bậc anh tài xuất chúng, có trí tuệ siêu việt khác thường.
Sau đó, ngài đến Đạo Tràng của Thế Tự Tại Vương Như Lai, rồi cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, nhiễu ba vòng bên phải, hai gối quỳ, chắp tay và dùng kệ tán thán:
‘Quang nhan sáng lồng lộng
Uy thần chí vô cực
Chói lòa như ánh lửa
Không ai sánh kịp hơn
Nhật nguyệt như ý châu
Tỏa sáng tuy chiếu rực
Cũng bị che ẩn khuất
Tối đen như vũng mực
Tôn dung Phật Như Lai
Siêu việt xuất thế gian
Chánh giác âm thanh lớn
Vang khắp đến mười phương
Đa văn giới tinh tấn
Chánh định sức trí tuệ
Uy đức không gì hơn
Hy hữu thù thắng thay
Thiện niệm tư duy kỹ
Biển Pháp của chư Phật
Thâm áo diệu vô cùng
Thông triệt tận đáy sâu
Vô minh ái dục sân
Thế Tôn vĩnh dứt trừ
Nhân hùng bậc sư tử
Thần đức diệu khôn lường
Công đức rộng lớn sâu
Trí tuệ thâm diệu mầu
Quang minh uy tướng hiện
Chấn động khắp Đại Thiên
Nguyện con khi thành Phật
Làm bậc Thánh Pháp Vương
Hóa độ chúng sanh mê
Sanh tử đều ra khỏi
Bố thí luôn trì giới
Nhẫn nhục hằng tinh tấn
Thiền định trụ như như
Trí tuệ siêu đệ nhất
Nguyện con khi thành Phật
Rộng hành lời nguyện này
Tất cả sợ hãi kinh
Thảy đều được an bình
Giả như có chư Phật
Nhiều như một tỷ ức
Vô lượng chư Đại Thánh
Số như cát sông Hằng
Con thảy đều cúng dường
Chư Phật Như Lai kia
Quyết tâm cầu Chánh Đạo
Kiên định chẳng động dao
Thế giới của chư Phật
Ví như cát sông Hằng
Không sao tính đếm xuể
Phật độ nhiều vô số
Quang minh đều chiếu soi
Trùm khắp các nước ấy
Tinh tấn cũng như vậy
Uy thần diệu khôn lường
Nguyện con khi thành Phật
Cõi nước thù thắng nhất
Trang nghiêm tối diệu kỳ
Đạo Tràng siêu tuyệt vi
Quốc độ như tịch diệt
An vui không gì sánh
Từ bi con thương xót
Độ thoát các chúng sanh
Chúng sanh khắp mười phương
Vãng sanh về nước con
Tâm ý vui thanh tịnh
Luôn hưởng mãi yên bình
Nguyện Phật từ chứng minh
Con xin lập hoằng thệ
Phát nguyện trước Như Lai
Gắng sức chóng viên thành
Mười phương chư Thế Tôn
Vô ngại trí tuệ quang
Như Lai luôn biết rõ
Am hiểu tâm hạnh con
Dù bị đau khôn xiết
Khổ ách giày xéo thân
Con luôn gắng tu hành
Nhẫn chịu chẳng hối tiếc'”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Khi đã xướng lên bài kệ đó xong, Bhikṣu Pháp Tạng bạch Phật rằng:
‘Kính bạch Thế Tôn! Con đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngưỡng mong Đức Phật hãy rộng giảng Kinh Pháp, để con theo đó tu hành và sẽ thành tựu cõi Phật vi diệu trang nghiêm, thanh tịnh vô lượng. Lại khiến con mau thành chánh giác và bạt trừ căn nguyên thống khổ của sanh tử.'”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Khi ấy Đức Phật Thế Tự Tại Vương bảo Bhikṣu Pháp Tạng:
‘Trang nghiêm Phật độ và tu hành như thế nào thì chính ông cũng đã tự biết.’
Vị Bhikṣu thưa với Phật rằng:
‘Nghĩa ấy sâu rộng, vượt ra ngoài cảnh giới của con. Kính mong Thế Tôn hãy rộng diễn nói các hạnh làm của chư Phật Như Lai lúc kiến lập cõi tịnh độ. Khi nghe xong, con sẽ như Pháp tu hành và sớm hoàn thành sở nguyện.’
Lúc bấy giờ, Đức Phật Thế Tự Tại Vương biết được chí nguyện hoằng thâm và quảng đại của Bhikṣu Pháp Tạng nên liền dạy rằng:
‘Ví như có người lấy thùng múc nước trong biển lớn. Trải qua nhiều số kiếp thì cũng sẽ cạn đến đáy và người đó lấy được những kỳ trân diệu bảo. Cũng như vậy, nếu có ai chí tâm tinh tấn và cầu Đạo chẳng thôi nghỉ thì tất sẽ đắc Quả. Không có nguyện gì mà chẳng thành.’
Khi đó, Đức Phật Thế Tự Tại Vương liền rộng nói 210 ức cõi nước của chư Phật, và ứng theo tâm nguyện của Bhikṣu Pháp Tạng mà hiện ra tất cả cõi nước thô diệu, trời người ở nơi đó, hoặc thiện hay ác.
Lúc bấy giờ, Bhikṣu Pháp Tạng nghe Phật thuyết giảng về các cõi nước thanh tịnh trang nghiêm và đều đã thấy, rồi ngài phát thệ nguyện vô thượng thù thắng. Tâm ngài tịch tĩnh, không vướng mắc. Tất cả trong thế gian, không ai có thể sánh bằng. Trải qua năm kiếp, ngài tư duy và tuyển lựa các hạnh thanh tịnh để trang nghiêm cõi Phật.”
Ngài Khánh Hỷ bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Thọ mạng của Đức Phật ở cõi nước kia dài bao lâu?”
Đức Phật bảo:
“Thọ mạng của Đức Phật đó là 42 kiếp. Khi ấy, Bhikṣu Pháp Tạng tuyển chọn các hạnh thanh tịnh từ trong 210 ức cõi nước vi diệu của chư Phật.
Khi đã tu hành như vậy xong, sau đó ngài đến chỗ của Phật, cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, nhiễu Phật ba vòng, đứng và chắp tay bạch rằng:
‘Bạch Thế Tôn! Con đã hoàn mãn tuyển tập các hạnh thanh tịnh để trang nghiêm Phật độ.’
Phật bảo vị Bhikṣu rằng:
‘Giờ ông hãy nói. Đây chính là lúc sẽ làm cho hết thảy đại chúng đều hoan hỷ. Sau khi nghe xong, những vị Bồ-tát khác cũng tu hành Pháp này và sẽ viên mãn vô lượng đại nguyện.’
Vị Bhikṣu thưa với Phật rằng:
‘Kính mong Như Lai lắng nghe. Con sẽ lần lượt nói hết các thệ nguyện ấy.
[1] Nguyện con khi thành Phật, nếu trong nước con có địa ngục, ngạ quỷ, hoặc bàng sanh, thì sẽ không trụ chánh giác.
[2] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, sau khi mạng chung mà còn đọa ba đường ác, thì sẽ không trụ chánh giác.
[3] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, thân chẳng giống như màu vàng ròng, thì sẽ không trụ chánh giác.
[4] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, hình sắc chẳng đồng nhau, có người đẹp kẻ xấu, thì sẽ không trụ chánh giác.
[5] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Túc Mạng Thông để biết trăm ngàn ức nayuta [na du ta] kiếp, thì sẽ không trụ chánh giác.
[6] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Thiên Nhãn Thông để thấy trăm ngàn ức nayuta quốc độ của chư Phật, thì sẽ không trụ chánh giác.
[7] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Thiên Nhĩ Thông để nghe trăm ngàn ức nayuta chư Phật thuyết Pháp hay chẳng thể thọ trì, thì sẽ không trụ chánh giác.
[8] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Tha Tâm Thông để hiểu tâm niệm của trăm ngàn ức nayuta chúng sanh trong chư Phật quốc độ, thì sẽ không trụ chánh giác.
[9] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Thần Túc Thông để đến trăm ngàn ức nayuta quốc độ của chư Phật trong thời gian một niệm, thì sẽ không trụ chánh giác.
[10] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như khởi tưởng niệm chấp trước nơi thân tướng, thì sẽ không trụ chánh giác.
[11] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng trụ nơi chánh định cho đến lúc diệt độ, thì sẽ không trụ chánh giác.
[12] Nguyện con khi thành Phật, nếu hào quang có giới hạn, như chẳng thể chiếu đến trăm ngàn ức nayuta quốc độ của chư Phật, thì sẽ không trụ chánh giác.
[13] Nguyện con khi thành Phật, nếu thọ mạng có giới hạn, như chẳng thọ đến trăm ngàn ức nayuta kiếp, thì sẽ không trụ chánh giác.
[14] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng Thanh Văn trong nước con, như có thể tính đếm và cho dù tất cả chúng sanh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đều thành bậc Duyên Giác, rồi cùng cộng tính suốt trăm ngàn kiếp mà biết được số ấy, thì sẽ không trụ chánh giác.
[15] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như thọ mạng có giới hạn, thì sẽ không trụ chánh giác–duy trừ do sức bổn nguyện mà thọ mạng dài ngắn theo ý muốn.
[16] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, dù chỉ nghe tên của việc bất thiện, thì sẽ không trụ chánh giác.
[17] Nguyện con khi thành Phật, nếu vô lượng chư Phật ở các thế giới trong mười phương, như chẳng ngợi khen danh hiệu con, thì sẽ không trụ chánh giác.
[18] Nguyện con khi thành Phật, nếu có chúng sanh nào với chí tâm tín thọ ở các thế giới trong mười phương, như muốn sanh về nước con và niệm đủ mười niệm mà chẳng được vãng sanh, thì sẽ không trụ chánh giác–duy trừ năm tội ngỗ nghịch hoặc phỉ báng Chánh Pháp.
[19] Nguyện con khi thành Phật, nếu có chúng sanh nào ở các thế giới trong mười phương mà phát khởi Đạo tâm, tu các công đức, chí tâm phát nguyện, và muốn sanh về nước con. Khi người ấy mạng chung mà con chẳng hiện ra và cùng đại chúng vây quanh trước người đó, thì sẽ không trụ chánh giác.
[20] Nguyện con khi thành Phật, nếu có chúng sanh nào ở các thế giới trong mười phương mà nghe được danh hiệu con, tưởng nhớ cõi nước con, tu hành công đức, rồi chí tâm hồi hướng, và muốn sanh về nước con mà chẳng được toại ý, thì sẽ không trụ chánh giác.
[21] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng thành tựu viên mãn 32 tướng hảo của bậc đại nhân, thì sẽ không trụ chánh giác.
[22] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát ở các quốc độ phương khác mà sanh đến nước con, như cứu cánh chẳng thành bậc Nhất Sanh Bổ Xứ, thì sẽ không trụ chánh giác–duy trừ do sức bổn nguyện tự tại nên hóa hiện ở quả vị ấy. Bồ-tát vì muốn độ thoát tất cả chúng sanh nên khoác lên áo giáp của đại nguyện và tích lũy thiện căn. Rồi du hành đến các quốc độ của chư Phật, tu hạnh Bồ-tát, cúng dường mười phương chư Phật Như Lai, giáo hóa vô lượng chúng sanh nhiều như cát sông Hằng và an lập họ nơi Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bồ-tát như vậy, hiện tiền tu theo Phổ Hiền hạnh nguyện và siêu vượt các địa thông thường.
[23] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát trong nước con, như chẳng thể nương uy thần của Phật với thời gian chừng bằng một bữa ăn để cúng dường đến khắp vô lượng vô số ức nayuta quốc độ của chư Phật, thì sẽ không trụ chánh giác.
[24] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát trong nước con, như chẳng thể hiện ra đầy đủ các công đức để cúng dường ở trước chư Phật, hoặc chẳng được như ý, thì sẽ không trụ chánh giác.
[25] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát trong nước con, như chẳng thể diễn nói Nhất Thiết Trí, thì sẽ không trụ chánh giác.
[26] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát trong nước con, như chẳng được thân kim cang kiên cố, thì sẽ không trụ chánh giác.
[27] Nguyện con khi thành Phật, hết thảy vạn vật trong nước con đều thanh tịnh trang nghiêm, sáng chói tráng lệ, hình sắc thù đặc, và vi diệu vô cùng đến chẳng thể suy lường. Nếu các chúng sanh trong quốc độ con, cho đến dùng thiên nhãn mà có thể thấu rõ số lượng và danh xưng đó, thì sẽ không trụ chánh giác.
[28] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát trong nước con, bao gồm những vị ít công đức, mà chẳng thể thấy biết nơi Đạo Tràng có cội Đạo thụ với vô lượng màu sắc chói sáng và cao bốn triệu dặm, thì sẽ không trụ chánh giác.
[29] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát trong nước con, thọ trì đọc tụng và thuyết giảng Kinh Pháp mà chẳng được trí tuệ biện tài, thì sẽ không trụ chánh giác.
[30] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát trong nước con, như trí tuệ biện tài có giới hạn, thì sẽ không trụ chánh giác.
[31] Nguyện con khi thành Phật, cõi nước sẽ thanh tịnh, chiếu soi tất cả vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn các thế giới của chư Phật trong mười phương, như tự thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không trụ chánh giác.
[32] Nguyện con khi thành Phật, từ mặt đất đến hư không sẽ có cung điện lầu các, ao hồ, dòng nước, và cây hoa. Hết thảy vạn vật trong cõi nước con đều do vô lượng châu báu khác nhau và trăm ngàn loại hương hợp thành. Những vật trang nghiêm kỳ diệu ấy đều vượt hơn ở cõi trời. Mùi hương đó xông khắp các thế giới trong mười phương và khi chư Bồ-tát ngửi vào thì đều sẽ tu Phật hạnh. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không trụ chánh giác.
[33] Nguyện con khi thành Phật, tất cả chúng sanh trong vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn các thế giới của chư Phật trong mười phương, khi được ánh hào quang của con chạm đến thân họ, thân tâm sẽ hiền hòa và an vui hơn cả chư thiên. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không trụ chánh giác.
[34] Nguyện con khi thành Phật, tất cả chúng sanh trong vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn các thế giới của chư Phật trong mười phương, khi nghe danh hiệu con mà chẳng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ-tát và các môn tổng trì thâm sâu, thì sẽ không trụ chánh giác.
[35] Nguyện con khi thành Phật, nếu có người nữ nào trong vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn các thế giới của chư Phật trong mười phương, khi nghe được danh hiệu con, rồi hoan hỷ tín thọ, phát khởi Đạo tâm, nhàm chán thân nữ, và sau khi mạng chung mà còn thọ thân nữ, thì sẽ không trụ chánh giác.
[36] Nguyện con khi thành Phật, nếu có chư Bồ-tát nào trong vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn các thế giới của chư Phật trong mười phương, khi nghe được danh hiệu con và sau khi mạng chung, họ sẽ thường tu tịnh hạnh cho đến lúc thành Phật Đạo. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không trụ chánh giác.
[37] Nguyện con khi thành Phật, nếu có hàng trời người trong vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn các thế giới của chư Phật trong mười phương, khi nghe được danh hiệu con, rồi cúi đầu đảnh lễ sát đất, hoan hỷ tín thọ, và tu hạnh Bồ-tát mà chẳng được chư thiên và người thế gian tôn kính, thì sẽ không trụ chánh giác.
[38] Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như muốn được y phục thì liền tự nhiên theo ý mà ứng hiện ra y phục vi diệu nơi thân, như Phật đã tán dương. Nếu cần phải may vá hoặc nhuộm tẩy hay giặt giũ, thì sẽ không trụ chánh giác.
[39] Nguyện con khi thành Phật, nếu những sự an vui thọ hưởng của hàng trời người trong nước con, như chẳng bằng vị Bhikṣu đã chứng Lậu Tận Thông, thì sẽ không trụ chánh giác.
[40] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát trong nước con, như muốn thấy vô lượng các Phật độ thanh tịnh trang nghiêm trong mười phương, thì liền ứng theo ý nguyện và đều hiện ra ở trong cây báu, như tự thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không trụ chánh giác.
[41] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát ở các quốc độ phương khác mà nghe được danh hiệu con và cho đến lúc thành Phật, như các căn của họ bị khiếm khuyết hay thấp kém, hoặc chẳng hoàn chỉnh, thì sẽ không trụ chánh giác.
[42] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát ở các quốc độ phương khác mà nghe được danh hiệu con, họ đều sẽ đắc Thanh Tịnh Giải Thoát Chánh Định. Khi trụ ở chánh định này, trong thời gian của một niệm, có thể cúng dường vô lượng chẳng thể nghĩ bàn chư Phật Thế Tôn mà chẳng mất chánh định. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không trụ chánh giác.
[43] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát ở các quốc độ phương khác mà nghe được danh hiệu con, thì sau khi mạng chung sẽ sanh vào nhà tôn quý. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không trụ chánh giác.
[44] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát ở các quốc độ phương khác mà nghe được danh hiệu con, vui mừng hớn hở, rồi tu hạnh Bồ-tát, và đầy đủ các công đức. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không trụ chánh giác.
[45] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát ở các quốc độ phương khác mà nghe được danh hiệu con, họ đều sẽ đắc Phổ Đẳng Chánh Định. Khi trụ ở chánh định này cho đến lúc thành Phật, họ sẽ luôn thấy vô lượng chẳng thể nghĩ bàn tất cả Như Lai. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không trụ chánh giác.
[46] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát trong nước con muốn nghe Pháp thì sẽ ứng theo ý nguyện mà tự nhiên được nghe. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không trụ chánh giác.
[47] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát ở các quốc độ phương khác mà nghe được danh hiệu con, như chẳng lập tức trụ không thoái chuyển, thì sẽ không trụ chánh giác.
[48] Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-tát ở các quốc độ phương khác mà nghe được danh hiệu con, như chẳng lập tức đắc Pháp Nhẫn thứ nhất, thứ nhì, và cho đến thứ ba; hoặc ở trong Phật Pháp, như chẳng có thể lập tức trụ không thoái chuyển, thì sẽ không trụ chánh giác.'”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Lúc bấy giờ, khi Bhikṣu Pháp Tạng phát lời nguyện ấy xong, rồi dùng kệ xướng rằng:
‘Thệ nguyện siêu thế gian
Tất thành Đạo vô thượng
Nếu nguyện chẳng viên tròn
Quyết không thành đẳng giác
Con trong vô lượng kiếp
Chẳng làm đại thí chủ
Rộng cứu kẻ khốn cùng
Quyết không thành đẳng giác
Nguyện con khi thành Phật
Danh vang khắp mười phương
Cứu cánh chẳng nghe qua
Quyết không thành đẳng giác
Lìa dục chánh niệm sâu
Tịnh tuệ tu tịnh hạnh
Quyết cầu Đạo vô thượng
Làm thầy của trời người
Thần lực hiển hào quang
Chiếu khắp vô biên cõi
Tiêu trừ tham sân si
Giải cứu chúng ách khổ
Khai mở mắt trí tuệ
Diệt trừ hôn manh ám
Đóng bít cửa đường ác
Mở toang cửa chốn lành
Công đức được viên tròn
Uy quang chiếu mười phương
Nhật nguyệt bị che khuất
Thiên quang ẩn chẳng hiện
Vì chúng khai Pháp tạng
Rộng thí công đức bảo
Thường ở giữa đại chúng
Thuyết Pháp sư tử hống
Cúng dường tất cả Phật
Đầy đủ mọi công đức
Trí tuệ nguyện viên thành
Làm thầy của ba cõi
Như Lai trí vô ngại
Thông đạt bao trùm khắp
Nguyện sức công đức con
Đồng như tối thắng Tôn
Nguyện này nếu sẽ thành
Đại Thiên hãy chấn động
Chư thiên khắp hư không
Tuôn rơi diệu bảo hoa'”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Sau khi Bhikṣu Pháp Tạng đã xướng lên những bài kệ đó xong, lập tức khắp đại địa đều chấn động sáu cách, trời mưa diệu hoa rải lên thân ngài.
Khi ấy tự nhiên có âm nhạc và trên không trung có tiếng rằng:
‘Ngài nhất định sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.’
Sau đó, Bhikṣu Pháp Tạng tu hành và viên mãn đầy đủ các đại nguyện như thế. Ngài được thành tựu như thật bất hư, vượt khỏi thế gian, và vui thích trong tịch diệt thâm sâu.”
“Này Khánh Hỷ! Bhikṣu Pháp Tạng ở giữa đại chúng–gồm thiên long bát bộ cùng Phạm Vương, ma, thần–đã phát hoằng thệ nguyện trước Đức Phật đó. Khi phát nguyện ấy rồi, ngài nhất tâm quyết chí tu tạo cõi nước vi diệu trang nghiêm, Phật quốc quảng đại, thù thắng siêu việt, vĩnh cửu trường tồn, và chẳng suy hoại hay biến đổi.
Trải qua ngàn tỷ kiếp dài đăng đẳng chẳng thể nghĩ bàn, Pháp Tạng tu tập vô lượng đức hạnh của Bồ-tát. Không sanh tham niệm, sân niệm, si niệm. Không khởi tham tưởng, sân tưởng, si tưởng. Không đắm trước sắc thanh hương vị xúc pháp. Thành tựu nhẫn nhục, chẳng sợ các khổ, thiểu dục tri túc, không tham sân si. Ngài luôn trụ trong chánh định tịch nhiên và có trí tuệ vô ngại. Tâm ngài chẳng nịnh hót hay dối trá. Nét mặt hiền từ, lời nói hiền hòa, và từ tốn hỏi han.
Ngài luôn tinh tấn dũng mãnh và chí nguyện không mỏi mệt. Ngài nhất tâm cầu Pháp thanh tịnh để làm lợi ích cho chúng sanh, cung kính Tam Bảo, và phụng sự sư trưởng. Với những hạnh trang nghiêm trọn đủ, ngài khiến cho các chúng sanh thành tựu công đức. Ngài trụ trong chánh định: không, vô tướng, vô nguyện. Quán pháp như hóa, vô tác vô khởi. Xa lìa lời thô ác sẽ hại cả mình lẫn người, duy chỉ tu tập lời hay ý đẹp để mình và người đều được lợi ích.
Pháp Tạng từ bỏ quốc gia và vương vị, đoạn tuyệt tài sắc để tu hành Sáu Độ và dạy bảo người khác cũng tu hành như vậy. Trải qua vô số kiếp tích lũy công đức, mọi nơi chốn ngài sanh ra, đều tự nhiên có vô lượng bảo tạng hiện ra như ý muốn. Pháp Tạng giáo hóa và an lập vô số chúng sanh trụ nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Hoặc làm trưởng giả hay cư sĩ thuộc dòng dõi tôn quý. Hoặc làm quốc vương thuộc dòng dõi quý tộc hay Chuyển Luân Thánh Vương. Hoặc làm thiên chủ của sáu tầng trời cõi dục và cho đến Phạm Vương. Ngài luôn thực hành bốn sự cúng dường và cung kính tất cả chư Phật. Các công đức như vậy thật chẳng thể nào kể cho xuể.
Hơi thở của ngài thơm khiết như hoa sen xanh. Những lỗ chân lông nơi thân toát ra mùi thơm hương đàn và mùi hương đó xông khắp vô lượng thế giới. Tướng mạo của Pháp Tạng đoan chánh, tướng hảo thù thắng vi diệu. Trên tay thường hiện ra châu báu nhiều vô tận, y phục ẩm thực, hương hoa quý hiếm, lọng che tràng phan, và đầy đủ các vật trang nghiêm. Những việc như vậy đều vượt hơn ở cõi trời và được tự tại trong tất cả pháp.”
Ngài Khánh Hỷ bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Pháp Tạng Bồ-tát có phải đã thành Phật và diệt độ rồi chăng? Hoặc ngài vẫn chưa thành Phật? Hay ngài hiện đang ở nơi nào đó?”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Pháp Tạng Bồ-tát hiện đã thành Phật. Bây giờ Ngài đang ở phương tây, cách đây 100.000 ức cõi Phật. Thế giới của Đức Phật đó tên là Cực Lạc.”
Ngài Khánh Hỷ lại hỏi rằng:
“[Bạch Thế Tôn!] Đức Phật đó thành Đạo đến nay đã được bao lâu?”
Đức Phật bảo:
“Ngài thành Phật đến nay đã trải qua mười kiếp.”
“Cõi nước của Đức Phật đó có bảy báu tự nhiên. Đất do vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ và mã não hợp thành. Quốc độ rộng lớn vô tận và chẳng thể biết được ranh giới. Ánh sáng của bảy báu hòa quyện với nhau, lung linh chói rực. Quốc độ ấy thanh tịnh trang nghiêm và vi diệu tráng lệ, vượt hơn tất cả thế giới trong mười phương. Những châu báu nơi đó là tối thắng trong các loại châu báu và giống như các châu báu ở tầng trời thứ sáu.
Lại nữa, cõi nước ấy không có núi Diệu Cao, núi Kim Cang, núi Thiết Vi, hay bất cứ núi non nào khác. Cũng chẳng có biển lớn, biển nhỏ, khe nước, kênh nước, giếng nước, hay thung lũng.
Do bởi uy thần của Đức Phật đó nên nếu ai muốn thấy thì sẽ được thấy. Cõi nước ấy cũng không có địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, hay các chướng nạn. Bốn mùa xuân hạ thu đông đều không có. Khí hậu luôn điều hòa mát mẻ, chẳng nóng hay lạnh.”
Lúc bấy giờ ngài Khánh Hỷ bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Nếu cõi nước đó không có núi Diệu Cao, thế thì trời Tứ Thiên Vương và trời Tam Thập Tam sẽ nương trụ ở đâu?”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Tầng trời thứ ba là trời Thiện Thời và cho đến trời Sắc Cứu Cánh thì nương trụ ở đâu?”
Ngài Khánh Hỷ bạch Phật rằng:
“[Bạch Thế Tôn!] Hành nghiệp và quả báo là chẳng thể nghĩ bàn.”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Như hành nghiệp và quả báo là chẳng thể nghĩ bàn, thì thế giới của chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn. Bởi do công đức thiện lực, các chúng sanh ở đó trụ nơi hạnh nghiệp nên mới được như vậy.”
Ngài Khánh Hỷ thưa với Phật rằng:
“[Thưa Thế Tôn!] Con đối với Pháp này chẳng hoài nghi, nhưng vì muốn dứt trừ nghi ngờ đó cho chúng sanh đời vị lai nên mới hỏi nghĩa ấy.”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Uy thần quang minh của Đức Phật Vô Lượng Thọ là tối tôn đệ nhất. Ánh hào quang của chư Phật khác không thể sánh bằng. Hoặc có Phật, hào quang chiếu soi 100 hay 1.000 thế giới của chư Phật. Hoặc có Phật, hào quang chiếu soi bảy thước, hoặc một, hai, ba, bốn, hay năm yojana [dô cha na], và gấp bội lên như thế, hoặc cho đến chiếu một Phật độ. Do hào quang của Đức Phật Vô Lượng Thọ chiếu đến Hằng Hà sa Phật độ ở phương đông nam tây bắc, bốn hướng phụ, cùng phương trên và phương dưới cũng lại như vậy.
Cho nên Đức Phật Vô Lượng Thọ còn có hiệu là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Diễm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Tuệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, và Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật.
Nếu có chúng sanh nào được hào quang của Ngài rọi đến thì tham sân si sẽ tiêu trừ, thân tâm hòa nhã, vui tươi hớn hở, và thiện tâm tăng trưởng. Giả như đang chịu cực khổ ở ba đường ác mà khi thấy ánh quang minh đó, họ đều sẽ được an lành và chẳng còn khổ não. Sau khi mạng chung, họ đều sẽ giải thoát.
Hào quang của Đức Phật Vô Lượng Thọ chiếu sáng hiển hách đến các quốc độ trong mười phương của chư Phật, không ai mà chẳng nghe biết. Không chỉ riêng Ta hôm nay xưng tán quang minh của Ngài, mà hết thảy chư Phật, chư Bồ-tát, và Thanh Văn Duyên Giác cũng đều đồng tán thán như vậy.
Nếu có chúng sanh nào nghe đến uy thần công đức về hào quang của Ngài và ngày đêm nhất tâm xưng tụng chẳng ngớt, thì sẽ được sanh về cõi nước đó như ước nguyện. Chư Bồ-tát và Thanh Văn thánh chúng cũng sẽ đồng ngợi khen công đức của người ấy. Khi những chúng sanh này thành Phật Đạo, thì khắp mười phương chư Phật Bồ-tát đều ngợi khen hào quang của họ như là Ta hôm nay vậy.”
Đức Phật bảo:
“Nếu Ta ngày đêm thuyết giảng về ánh sáng uy thần và sự thù thắng vi diệu của Đức Phật Vô Lượng Thọ trọn suốt một kiếp thì vẫn chẳng thể hết.”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Lại nữa, Đức Phật Vô Lượng Thọ có thọ mạng trường cửu đến không thể tính kể. Ông có biết chăng? Giả như vô lượng chúng sanh ở các thế giới trong mười phương đều được thân người và chứng Quả Thanh Văn hay Duyên Giác, rồi cùng hội họp, thiền định nhất tâm, cùng nhau tính toán suốt trăm ngàn kiếp đến hết cả trí lực, thì thọ mạng số kiếp lâu dài của Đức Phật đó vẫn không thể cùng tận và chẳng thể biết được giới hạn. Cho đến thọ mạng dài ngắn của chư Bồ-tát, Thanh Văn, và hàng trời người cũng đều như thế–không thể dùng toán số thí dụ mà có thể biết được.”
“Lại nữa, số lượng của chư Bồ-tát cùng hàng Thanh Văn thật khó suy lường và chẳng thể nào kể cho xuể. Thần thông và trí tuệ của các ngài đều thông đạt, uy đức tự tại, và có thể để tất cả thế giới vào lòng bàn tay.”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Số lượng của hàng Thanh Văn ở trong hội đầu tiên của Đức Phật đó chẳng kể xiết, còn chư Bồ-tát thì cũng vậy. Giả như có tỷ ức vô lượng vô số người như Thần thông Đại Thải Thục Thị, rồi họ cùng cộng tính trong vô số nayuta kiếp, cho mãi đến khi diệt độ, thì vẫn không thể biết được số ấy là bao nhiêu. Đây ví như biển lớn, rộng sâu thăm thẳm. Giả sử có người cắt sợi lông ra làm trăm phần, rồi dùng một phần đó chấm vào nước ở biển cả. Ý ông nghĩ sao? Giọt nước ở trên đầu sợi lông đó mà so với dung lượng của nước trong biển lớn kia thì bên nào nhiều hơn?”
Ngài Khánh Hỷ thưa với Phật rằng:
“[Thưa Thế Tôn!] Dung lượng của nước trong biển lớn so với giọt nước kia thì không thể dùng ngôn từ hay toán số thí dụ mà có thể biết được.”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Số lượng của hàng Thanh Văn và chư Bồ-tát ở trong hội đầu tiên thì cũng như số lượng tính được của Thần thông Đại Thải Thục Thị suốt tỷ ức nayuta kiếp. Số biết được như chừng bằng một giọt nước. Còn số chẳng biết thì ví như nước ở biển lớn.”
“Lại nữa, cõi nước đó có cây bảy báu ở khắp mọi nơi, như là những cây làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, san hô, mã não, và xa cừ.
– Hoặc có cây làm bằng hai, ba, hay cho đến bảy báu mà hợp thành.
– Hoặc có cây làm bằng vàng với lá, hoa và trái là bạc.
– Hoặc có cây làm bằng bạc với lá, hoa và trái là vàng.
– Hoặc có cây làm bằng lưu ly với lá, hoa và trái là pha lê.
– Hoặc có cây làm bằng thủy tinh với lá, hoa và trái là lưu ly.
– Hoặc có cây làm bằng san hô với lá, hoa và trái là mã não.
– Hoặc có cây làm bằng mã não với lá, hoa và trái là lưu ly.
– Hoặc có cây làm bằng xa cừ với lá, hoa và trái là trân bảo.
– Hoặc có cây báu lấy vàng tím làm rễ, bạc trắng làm thân, lưu ly làm cành, thủy tinh làm nhánh, san hô làm lá, mã não làm hoa, và xa cừ làm trái.
– Hoặc có cây báu lấy bạc trắng làm rễ, lưu ly làm thân, thủy tinh làm cành, san hô làm nhánh, mã não làm lá, xa cừ làm hoa, và vàng tím làm trái.
– Hoặc có cây báu lấy lưu ly làm rễ, thủy tinh làm thân, san hô làm cành, mã não làm nhánh, xa cừ làm lá, vàng tím làm hoa, và bạc trắng làm trái.
– Hoặc có cây báu lấy thủy tinh làm rễ, san hô làm thân, mã não làm cành, xa cừ làm nhánh, vàng tím làm lá, bạc trắng làm hoa, và lưu ly làm trái.
– Hoặc có cây báu lấy san hô làm rễ, mã não làm thân, xa cừ làm cành, vàng tím làm nhánh, bạc trắng làm lá, lưu ly làm hoa, và thủy tinh làm trái.
– Hoặc có cây báu lấy mã não làm rễ, xa cừ làm thân, vàng tím làm cành, bạc trắng làm nhánh, lưu ly làm lá, thủy tinh làm hoa, và san hô làm trái.
– Hoặc có cây báu lấy xa cừ làm rễ, vàng tím làm thân, bạc trắng làm cành, lưu ly làm nhánh, thủy tinh làm lá, san hô làm hoa, và mã não làm trái.
Những cây báu với từng hàng thẳng tắp, thân cành tương xứng, mỗi lá hướng nhau, và hoa quả đồng đều. Màu sắc của chúng rực rỡ và sáng chói đến không thể nhìn lâu. Khi làn gió mát thổi qua, những cây đó phát ra năm loại âm thanh. Âm điệu ấy vi diệu và hài hòa tự nhiên.”
“Lại nữa, cội Đạo thụ ở Đạo Tràng của Đức Phật Vô Lượng Thọ cao bốn triệu dặm. Chu vi thân cây là 5.000 yojana. Cành lá trải rộng 200.000 dặm ở bốn hướng. Tất cả đều do các loại báu khác nhau tự nhiên hợp thành và được trang nghiêm với nguyệt quang như ý trì hải luân bảo, là vua trong các loại châu báu. Trên cành cây treo lủng lẳng các xâu chuỗi anh lạc báu với một tỷ màu sắc, biến hóa lạ thường, phóng ra vô lượng ánh sáng chói lòa và chiếu sáng rực rỡ. Có lưới báu trân châu vi diệu phủ trùm trên cây và tùy theo ý mà hiện ra tất cả những sự trang nghiêm. Khi làn gió thổi nhẹ qua, chúng phát ra Pháp âm vi diệu và vang khắp đến hết thảy cõi nước của chư Phật trong mười phương. Những ai nghe được thanh âm đó thì sẽ được Pháp Nhẫn thâm sâu, trụ không thoái chuyển, và mãi đến khi thành Phật Đạo cũng chẳng gặp mọi khổ nạn. Mặc dù mắt thấy hình sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương thơm, lưỡi nếm mùi vị, thân xúc chạm ánh sáng, và tâm cảm nhận pháp trần, nhưng họ thảy đều được sáu căn thanh tịnh, đắc Pháp Nhẫn thâm sâu, trụ không thoái chuyển, và mãi đến khi thành Phật Đạo cũng không có các hoạn nạn hay khổ não.
Này Khánh Hỷ! Nếu hàng trời người ở quốc độ kia khi thấy cội Đạo thụ đó, họ sẽ được ba Pháp Nhẫn.
1. Âm Hưởng Nhẫn
2. Nhu Thuận Nhẫn
3. Vô Sanh Pháp Nhẫn
Đây đều do bởi sức uy thần, sức bổn nguyện, mãn túc nguyện, minh liễu nguyện, kiên cố nguyện, và cứu cánh nguyện của Đức Phật Vô Lượng Thọ.”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Đế vương ở thế gian và Chuyển Luân Thánh Vương có trăm ngàn loại âm nhạc để tiêu khiển. Thế nhưng âm nhạc ở trên tầng trời thứ sáu còn hay hơn ngàn vạn ức lần. Tuy ở trên tầng trời thứ sáu có muôn loại âm nhạc nhưng cũng không bằng một phần ngàn ức của một âm thanh từ cây bảy báu nơi cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ.
Những cây đó tự nhiên phát ra hàng vạn loại âm nhạc. Thanh âm ấy đều là Pháp âm, thanh tịnh du dương, vi diệu hòa nhã, là thanh âm tối đệ nhất ở trong tất cả các thế giới khắp mười phương.”
“Lại có giảng đường, tinh xá, cung điện, và lầu các đều do bảy báu trang nghiêm tự nhiên hóa thành. Quấn quanh và trùm khắp trên đó là trân châu minh nguyệt và bảo châu như ý.”
“Trong ngoài và trái phải của những kiến trúc ấy có những ao tắm. Chiều dài, sâu và rộng của mỗi ao bằng nhau. Hoặc là 10, 20, hay 30 yojana, hoặc cho đến trăm ngàn yojana. Trong ao tràn đầy nước tám công đức, thanh tịnh thơm khiết, và mùi vị như cam lộ.
– Đáy ao hoàng kim dùng cát bạc trắng để trải làm đất.
– Đáy ao bạc trắng dùng cát hoàng kim để trải làm đất.
– Đáy ao thủy tinh dùng cát lưu ly để trải làm đất.
– Đáy ao lưu ly dùng cát thủy tinh để trải làm đất.
– Đáy ao san hô dùng cát hổ phách để trải làm đất.
– Đáy ao hổ phách dùng cát san hô để trải làm đất.
– Đáy ao xa cừ dùng cát mã não để trải làm đất.
– Đáy ao mã não dùng cát xa cừ để trải làm đất.
– Đáy ao ngọc trắng dùng cát vàng tím để trải làm đất.
– Đáy ao vàng tím dùng cát ngọc trắng để trải làm đất.
Hoặc có ao do hai báu, ba báu, hay cho đến bảy báu cộng hợp thành. Trên bờ của các ao đó có những cây hương đàn. Hoa lá của chúng tỏa ra mùi hương xông thơm khắp nơi. Ở trên khắp mặt nước có các hoa trời, như là hoa sen sanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng và chúng phóng ra nhiều màu ánh sáng khác nhau.
Khi chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn đi vào trong ao báu:
– Như muốn nước tới bàn chân thì nước liền đến bàn chân.
– Như muốn nước tới đầu gối thì nước liền đến đầu gối.
– Như muốn nước tới eo lưng thì nước liền đến eo lưng.
– Như muốn nước tới ngang cổ thì nước liền đến ngang cổ.
– Như muốn tắm gội thân thể thì nước tự nhiên rưới vào thân họ.
– Như muốn trở lại như cũ thì nước liền trở lại như cũ.
Nhiệt độ lạnh hay nóng đều tự nhiên theo ý mà được điều hòa. Nước đó làm cho tinh thần minh mẫn, thân thể tươi vui, và trừ đi cáu bẩn trong tâm. Nước ấy lắng trong thanh khiết, trong suốt như vô hình. Cát báu ở đáy ao ánh triệt chiếu sáng và dù nước sâu đến đâu cũng trông thấy được.
Có những đợt sóng nhỏ lăn tăn gợn lên và tan đi êm dịu, không mau cũng không chậm, và tự nhiên phát ra vô lượng diệu âm. Tùy người nghe mà đều ứng hiện như ý. Hoặc nghe âm thanh của Phật. Hoặc nghe âm thanh của Pháp. Hoặc nghe âm thanh của Tăng. Hoặc tiếng tịch tĩnh, tiếng không, tiếng vô ngã, tiếng đại từ bi, và tiếng Đến Bờ Kia. Hoặc âm thanh của Mười Lực, Bốn Vô Sở Úy, và 18 Pháp Bất Cộng. Các tiếng thông tuệ, tiếng không tạo tác, tiếng không khởi diệt, tiếng Vô Sanh Nhẫn, cho đến tiếng cam lộ quán đảnh. Các diệu Pháp âm như vậy đều làm người nghe hoan hỷ vô lượng và tùy thuận theo nghĩa của thanh tịnh, ly dục, tịch diệt, và chân thật. Tùy thuận Tam Bảo, Mười Lực, Bốn Vô Sở Úy, và 18 Pháp Bất Cộng. Tùy thuận nơi Đạo thông tuệ tu hành của Bồ-tát và Thanh Văn. Nơi ấy không có ba đường ác và danh xưng của những khổ nạn, mà tự nhiên chỉ có thanh âm vui vẻ. Cho nên cõi nước đó tên là Cực Lạc.”
“Này Khánh Hỷ! Phàm ai vãng sanh về cõi nước của Đức Phật kia sẽ đầy đủ sắc thân thanh tịnh, các âm thanh vi diệu, và thần thông công đức.
Nơi cung điện họ ở, y phục ẩm thực, các loại hương hoa vi diệu, và những vật dùng trang nghiêm đều tự nhiên hóa hiện như các vật dụng ở tầng trời thứ sáu. Khi muốn ăn, các bình bát bảy báu bằng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, hoặc minh nguyệt trân châu, sẽ tự nhiên hiện ở trước họ. Ứng theo tâm niệm, các chén báu như thế liền hiện đến. Lại có ẩm thực trăm vị, tự nhiên đầy khắp trong đó. Tuy có thức ăn nhưng thật không có người thọ dụng. Mắt chỉ cần nhìn, mũi ngửi hương, và dùng ý quán sát thì tự nhiên no đủ. Thân tâm họ nhẹ nhàng và không tham đắm sắc vị. Khi dùng xong thì đều biến mất; lúc đến giờ thì tự nhiên sẽ hiện trở lại. Sự thanh tịnh bình yên và an vui vi diệu ở cõi nước của Đức Phật kia chỉ kế sau Đạo vô vi tịch diệt.
Chư Bồ-tát, Thanh Văn, và hàng trời người ở đó có trí tuệ cao minh, thần thông tự tại. Hết thảy đồng giống nhau, hình sắc đều không chút sai khác. Nhưng vì tùy thuận các phương khác, cho nên mới có tên trời người. Họ có tướng mạo đoan chánh, dung nhan vi diệu, thật siêu việt và hiếm có trong đời. Họ chẳng phải trời hay người, thân thể lớn vô cực và tự nhiên như hư không.”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Ví như người xin ăn nghèo khổ ở thế gian đứng bên cạnh đế vương, dung mạo và hình dáng của người ăn mày có thể sánh với đế vương không?”
Ngài Khánh Hỷ thưa với Phật rằng:
“[Thưa Thế Tôn!] Giả như người này đứng bên cạnh đế vương thì tướng mạo người đó gầy gò, xấu xí đến chẳng gì có thể ví dụ được, tỷ ức lần kém xa đế vương.
Vì sao thế? Bởi người xin ăn nghèo khổ này thấp kém tột cùng, mảnh áo chẳng đủ che thân, ăn không đủ no, cả mạng cũng khó giữ, đói rét khốn khổ, và mất hết luân lý làm người. Người đó ở đời trước không hề gieo trồng căn lành, chỉ lo tích chứa tiền tài, giàu có nhưng keo kiệt, và không chịu bố thí. Người ấy chỉ ham mọi thứ cho nhiều, tham cầu không biết chán, chẳng tin tu thiện, và phạm tội ác chồng chất như núi. Người như vậy sau khi mạng chung, tài bảo sẽ tiêu tan. Tiền của tích tụ làm cho khổ thân nhọc xác, lòng luôn bị lo âu, chẳng có chút ích lợi gì cho mình cả mà kết cục lại lọt hết vào tay người khác. Bởi không có phước để hộ, không có đức để che, cho nên lúc chết, họ phải đọa đường ác để chịu mãi thống khổ. Sau khi nghiệp tội đã hết thì mới được ra khỏi. Dù được sanh làm người nhưng sanh làm kẻ hạ tiện, ngu đần đến cực điểm.
Đế vương ở thế gian là nhân trung độc tôn. Đây đều là do ở đời trước tích tập phước đức, nhân từ bác ái, từ mẫn bố thí, tín nghĩa tu thiện, và không tranh hơn thua. Cho nên sau khi mạng chung, phước báo ứng hiện và được sanh lên chốn lành. Hoặc sanh lên trời để thọ hưởng phước lạc. Hoặc do bởi họ tích lũy thiện căn nên nay làm người và sanh vào nhà đế vương. Họ tự nhiên sẽ được tôn quý, có tướng mạo đoan chánh và mọi người kính mến. Họ mặc những y phục tuyệt đẹp, ăn các món ngon vật lạ, và mọi việc đều tùy tâm như ý. Đây là do bởi phước của đời trước nên mới được như thế.”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Lời ông nói rất đúng. Tuy đế vương là hàng tôn quý trong loài người, nhưng so với Chuyển Luân Thánh Vương thì hình sắc đoan chánh đó thật xấu xí, như kẻ ăn mày kia đứng bên cạnh đế vương vậy. Uy tướng thù thắng vi diệu của Chuyển Luân Thánh Vương là thiên hạ đệ nhất, nhưng so với vua của trời Tam Thập Tam thì vạn ức lần xấu hơn. Nếu thiên đế so với vua trời ở tầng trời thứ sáu, thì trăm ngàn ức lần thua xa. Nếu vua trời ở tầng trời thứ sáu mà so với chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn ở quốc độ của Đức Phật Vô Lượng Thọ, thì dung nhan tươi sáng ấy kém xa cả tỷ ức lần, cho đến không thể tính kể số lần.”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Ở cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ, như y phục ẩm thực, hương hoa, xâu chuỗi anh lạc, lọng che tràng phan, âm thanh vi diệu, nhà cửa nơi ở, và cung điện lầu các, với hình sắc kích cỡ, cao thấp lớn nhỏ, làm bằng một báu, hai báu, hoặc cho đến vô lượng châu báu. Trời người ở đó tùy theo ý muốn mà các thứ ấy liền lập tức hiện đến.
Lại có diệu y trân bảo trải khắp mặt đất và tất cả trời người đi trên đó. Có vô lượng lưới báu trùm khắp cõi Phật ấy và chúng đều làm bằng vàng, trân châu, và trăm ngàn tạp bảo kỳ diệu hiếm quý dùng trang nghiêm. Treo ở bốn phía xung quanh là các chuông báu, sắc màu sáng chói lung linh, trang nghiêm mỹ lệ phi thường.
Có gió công đức tự nhiên thổi nhè nhẹ, không mau không chậm, chẳng nóng hay lạnh, ôn hòa mát mẻ. Gió ấy điều hòa dịu dàng, thổi lay động các lưới giăng và hàng cây báu, phát ra vô lượng Pháp âm vi diệu và thoang thoảng tỏa ngát muôn loại hương công đức. Phàm ai ngửi qua thì những trần lao cáu bẩn cùng các tập khí sẽ tự nhiên chẳng dấy khởi. Khi làn gió chạm đến thân, thì họ đều được vui vẻ, ví như vị Bhikṣu đắc Diệt Tận Định.
Lại nữa, làn gió thổi mang theo những đóa hoa và tùy theo thứ tự màu sắc của mỗi hoa mà rải cùng khắp Phật độ, không xen tạp. Hoa ấy mềm mại sáng láng, hương thơm ngào ngạt. Khi bước trên đó, chân lún bốn tấc. Khi nhấc chân lên, hoa trở lại như cũ. Các đóa hoa đã giẫm lên thì mặt đất liền hé ra và từ từ biến mất, thanh tịnh không vết tích. Tùy theo thời khắc mà có gió thổi và hoa rơi sáu lần mỗi ngày như vậy.
Lại nữa, có những hoa sen báu đầy khắp ở thế giới đó. Mỗi hoa báu có trăm ngàn ức lá. Hoa ấy phóng ra vô lượng tia sáng với nhiều màu sắc. Màu xanh tỏa ánh sáng xanh, màu trắng tỏa ánh sáng trắng. Đen, vàng, đỏ, tím cũng lại như vậy. Sắc màu tỏa sáng, chói lọi rực rỡ, và sáng hơn mặt trời mặt trăng. Trong mỗi hoa phóng ra 3,6 triệu ức tia sáng. Trong mỗi tia sáng hiện ra 3,6 triệu ức vị Phật với thân màu vàng tím và tướng hảo thù đặc. Mỗi chư Phật lại phóng trăm ngàn hào quang và rộng thuyết diệu Pháp cho chúng sanh khắp mười phương. Mỗi chư Phật như thế đều an lập vô lượng chúng sanh nơi Chánh Đạo của Phật.”
① “Tuệ Biện Tài Bồ-tát”, trong bản dịch khác có tên của vị Bồ-tát này. Nếu như được bổ sung ở đây thì sẽ đầy đủ các danh hiệu của 16 vị Chánh Sĩ.
② Nguyên văn là “Đĩnh Quang Như Lai”, cũng tức là Đức Phật Nhiên Đăng. Về phần nghĩa của “đĩnh quang” và “nhiên đăng” không khác nhau lắm, nhưng do dịch giả dịch có khác nên phần văn tự có sai khác. Sở dĩ được thay vào thành Nhiên Đăng Như Lai, là vì Đức Phật Nhiên Đăng nghe rất quen thuộc và các Kinh Điển khác thường nhắc đến với danh hiệu này. Lại nữa, trong bản dịch khác ghi là Nhiên Đăng Như Lai. Bản tiếng Phạn có đoạn như sau: tena kālena tena samayena dīpaṁkaro nāma tathāgato’rhan samyaksaṁbuddho loka udapādi. Dịch là: “lúc ấy có Đức Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác.” Dīpaṁkara Tathāgata tức là Nhiên Đăng Như Lai.