Hòa thượng Tuyên Hóa được đông đảo người dân yêu mến, tôn thờ như một vị bồ tát sống. Ngài không chỉ có tấm lòng từ bi, luôn giúp đỡ mọi người, mà những gì mà ngài để lại cho thế hệ sau này thực sự vô cùng quý giá. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn phần nào hiểu thêm về cuộc đời và đạo nghiệp của ngài.
Tiểu sử Hòa thượng Tuyên Hóa
Hòa thượng Tuyên Hóa có tên khai sinh là Bạch Ngọc Thư, sinh ngày 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ (tức 26 tháng 4 năm 1918), tại tỉnh Kiết Lâm, huyện Song Thành, tỉnh Tùng Giang, vùng Đông Bắc Trung Hoa (tức Mãn Châu ngày nay). Cha của ngài tên là Phú Hải, chuyên nghề nông; còn mẹ thuộc dòng dõi họ Hồ, tổng cộng cha mẹ sinh được tám người con, năm trai ba gái, và bản thân ngài là con trai út.
Mẹ của Hòa thượng Tuyên Hóa vốn là một tín đồ sùng đạo Phật giáo sâu sắc. Do ngài chịu ảnh hưởng từ mẹ, từ nhỏ ngài đã có ý xuất gia. Tuy nhiên, mãi sau này khi mẹ qua đời, ngài mới có dịp đi đến chùa Tam Duyên để kính lạy Lão Hòa thượng Thường Trí làm thầy, chính thức xuống tóc xuất gia. Thời điểm đó, ngài mới chỉ 19 tuổi.
Sau khi xuất gia, Hòa thượng Tuyên Hóa trở về mộ phần của mẹ để làm lễ thủ hiếu trong suốt ba năm. Trong khoảng thời gian đó, ngài sống trong một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tập luyện tọa Thiền, tu tập Phật pháp.
Cuộc đời và đạo nghiệp tu hành của Hòa thượng Tuyên Hóa
Năm 1946, sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, Hòa thượng Tuyên Hóa đã tìm xuống phía Nam để đi đến chùa Nam Hoa ở Tào Khê, tỉnh Quảng Đông, để bái lễ Lão Hòa thượng Hòa thượng Hư Vân, và đi đến núi Phổ Đà để thọ Cụ Túc Giới. Cuối cùng, sau khi trải qua hơn 3.000 dặm di chuyển, ngài đã được bái kiến lão Hòa thượng Hư Vân, bậc Đại thiện tri thức mà trước nay ngài vẫn luôn ngưỡng mộ.
Vừa nhìn thấy ngài, lão Hòa thượng, lúc ấy đã 109 tuổi, liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của ngài. Lão Hòa thượng khi đó đã nói: “Như thị, như thị!” và ngài cũng đáp lại “Như thị, như thị!” Biết ngài là bậc “pháp khí”, lão Hòa thượng ấn chứng sở đắc của sư, tặng cho ngài pháp hiệu Tuyên Hóa. Điều đó đánh dấu cột mốc ngài chính thức trở thành vị tổ thứ chín của Quy Ngưỡng tông, Hòa thượng Tuyên Hóa. Sau đó, Lão Hòa thượng dạy ngài ở lại đảm nhận chức Viện trưởng Viện Giới luật của chùa Nam Hoa.
Năm 1949, Hòa thượng Tuyên Hóa từ giã chùa Nam Hoa, lên đường sang Hương Cảng, và sống trong một sơn động biệt lập. Chẳng bao lâu, đã có vô số tăng lữ từ Trung Hoa Đại Lục qua Hương Cảng tị nạn và cầu cứu sự giúp đỡ của ngài. Ngài bèn rời khỏi sơn động, sáng lập nên Phật giáo Giảng Đường, chùa Tây Lạc Viên và Từ Hưng Thiền Tự, cùng trợ giúp xây dựng và trùng tu nhiều đạo tràng khác.
Năm 1961, Hòa thượng Tuyên Hóa sang Úc Châu để hoằng Pháp. Đến năm 1962, ngài đi đến San Francisco, Hoa Kỳ. Tại đây, trong một nhà kho nhỏ, ngài đã kiên trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cơ duyên hoằng dương Đạo pháp chín muồi. Lúc ấy, ngài tự gọi mình là “Mộ Trung Tăng” (nhà sư trong phần mộ) và “Hoạt Tử Nhân” (người đã chết nhưng còn sống).
Năm 1968, biết cơ duyên đã đến, Hòa thượng Tuyên Hóa nói: “Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh.” Mùa hè năm ấy, ngài đã chủ trì Pháp hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong vòng 96 ngày liên tục. Khi Pháp hội kết thúc, quả nhiên có năm người Mỹ xin xuất gia với ngài. Từ đó, ngài chủ trì nhiều Pháp hội khác giảng giải Tâm Kinh, Kinh Địa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Đàn,…
Năm 1976, Hòa thượng Tuyên Hóa thành lập Vạn Phật Thánh Thành, nền tảng căn cứ địa để hoằng dương Phật Pháp tại Hoa Kỳ. Tại Thánh Thành, ngài cho xây dựng chế độ tùng lâm, đào tạo Tăng ni học chúng, tạo nhân duyên thù thắng cho sự chân chính tu hành. Ngài chủ trương rằng tất cả chúng Phật tử cần phải đoàn kết lại và nên dung hợp Nam, Bắc tông. Nhờ đó, nhiều dịp truyền thọ Tam Đàn Đại Giới tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành là do chư cao tăng Đại thừa và Tiểu thừa hợp lực chủ trì.
Vào năm 1973, Hòa thượng Tuyên Hóa chính thức thành lập Hội Phiên dịch Kinh điển (Buddhist Text Translation Society) tại đường Washington ở Cựu Kim Sơn. Đến năm 1977, viện lại được sáp nhập vào trường Đại học Phật giáo Pháp giới, với danh xưng Học viện Phiên dịch Kinh điển Quốc tế.
Vào năm 1990, ngài lại nới rộng và dời Viện về thành phố Burlingame ở phía nam của Cựu Kim Sơn. Khi Hội Phiên dịch Kinh sách được thành lập, ngài lập ra bốn phòng ban đặc biệt để điều hành việc phiên dịch. Bốn phòng ban này cung ứng phương thức tuyệt hảo cho việc huấn luyện những người mới tham gia trong tiến trình phiên dịch.
Năm 1980, Hòa thượng Tuyên Hóa thành lập Trung tâm Cứu Tế Nạn dân, một tổ chức cứu trợ xã hội bất vụ lợi được chính phủ Hoa Kỳ ủy quyền để cứu tế, cung cấp các lớp huấn luyện và đào tạo Anh ngữ, đồng thời giúp tái định cư người tị nạn từ Việt Nam, Lào, Campuchia sang Hoa Kỳ. Trung tâm này đóng cửa vào năm 1986 theo quyết định của chính phủ.
Năm 1982, ngài thành lập chương trình huấn luyện Tăng ni và cư sĩ với mục đích chủ yếu vào việc tu trì học tập Phật pháp trong khuôn viên tu viện, dựa trên nền tảng của giới định huệ.
Năm 1987, ngài chỉ đạo trường Đại học Pháp giới tổ chức hội thảo tôn giáo quốc tế tại Vạn Phật Thánh Thành. Cũng trong năm 1987, ngài đã có buổi diễn giảng tại khóa hội thảo Phật giáo-Cơ Đốc giáo Quốc tế lần thứ ba tại Berkeley.
Năm 1989, Hòa thượng Tuyên Hóa được hội Quaker thỉnh mời đến Pendle Hill, Pennsylvania để thuyết pháp định kỳ tại trung tâm tu học đó. Năm 1992, ngài là quý khách chủ trì pháp hội hằng năm của nhóm Vedanta Society. Đáng kể thêm là tình đạo chân thành giữa ngài và Cha xứ John Rogers, giáo sĩ trường Đại học Humboldt, vô cùng gắn bó và mật thiết.
Ngày 7 tháng 6 năm 1995, Hòa thượng Tuyên Hóa viên tịch tại Los Angeles, Hoa Kỳ, trao lại cho các đệ tử ba trách nhiệm quan trọng nhất: Thứ nhất, tiếp tục hoằng dương Phật Pháp. Thứ hai, phiên dịch kinh điển Phật giáo. Và thứ ba, hoàn mãn sự nghiệp giáo dục. Tuân theo di huấn của ngài, tứ chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc Tổng hội Phật giáo Pháp giới đều chuyên tâm trì tụng Kinh Hoa Nghiêm và niệm Phật suốt 49 ngày kể từ hôm ngài viên tịch.
Ngày 12 tháng 6 năm 1995, lễ nhập quan của Hòa thượng Tuyên Hóa được cử hành tại Long Beach Thánh Tự. Đến ngày 16 tháng 6, kim quan của ngài được cung thỉnh về Vạn Phật Thành. Tại đây lễ tri ân được tổ chức từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 7, tro cốt của ngài được rải trên địa phận của Vạn Phật Thánh Thành đúng như lời di huấn của ngài để lại trước khi viên tịch.
Một số sự tích về Hòa thượng Tuyên Hóa
Năm Hòa thượng Tuyên Hóa tròn mười một tuổi, một hôm ngài cùng với chúng bạn dạo chơi, chợt trông thấy một em bé miệng ngậm, mắt nhắm, nằm bó trong đám rơm. Ngài chạy lại để gọi mà đứa bé chẳng hề hồi đáp, sờ thì chẳng có hơi thở. Ngài lấy làm khó hiểu vô cùng nên hỏi lại lũ bạn. Có đứa tỏ vẻ hiểu biết nên liền nói: “Ðứa bé đó đã chết rồi!”. Thế nhưng ngài vẫn vô cùng ngạc nhiên, không hiểu thế nào là chết. Về nhà, ngài đem chuyện đó thưa hỏi thân mẫu, bà dạy: “Phàm làm người, ai cũng phải chết. Có kẻ chết già, có kẻ chết vì bệnh, cũng có kẻ chết vì tai nạn. Bất luận là giàu sang hay nghèo hèn, ai ai rốt cuộc cũng phải chết cả !”. Khi đó ngài lại thưa: “Như vậy, có cách gì thoát sự chết chăng?”. Bấy giờ trong nhà có vị khách xưa kia từng tu Ðạo, đỡ lời đáp rằng: “Chỉ có cách tu Ðạo, hiểu rõ tự tâm, thấu suốt bổn tánh, thì mới có thể chấm dứt sanh tử, thoát vòng luân hồi, thành tựu Chánh Giác, chứng được Vô Sanh.”
Tuy rằng khi đó Hòa thượng Tuyên Hóa còn nhỏ tuổi, song đối với lời vị khách nói, Ngài như thể đã tỉnh ngộ sâu xa, nên quyết chí xuất gia tu Ðạo. Khi Ngài mang chuyện xuất gia thưa với thân mẫu, bà dạy: “Xuất gia là điều tốt lắm, song không phải là chuyện dễ làm. Cần có thiện căn, có đại nguyện lực, phát đại Bồ Ðề tâm, thì mới có thể thành tựu Vô Thượng Ðạo. Nay con có lòng vậy, ta hết sức đồng ý! Song, nay ta đã già, mà các anh chị con đều đã tự lập, vậy con nên ở lại để phụng dưỡng cha mẹ, khi ta mất rồi, con xuất gia tu hành cũng chưa muộn”.
Ngài vâng lời cha me. Sau đó, hằng ngày ngài thường theo thân mẫu cúng lạy Phật. Lạy Phật xong, ngài lạy cha mẹ, rồi vì nhận thấy thế giới này còn lớn hơn cả cha mẹ, nên ngài hướng về trời, đất mà lạy. Ngài lại nghĩ đến những người tốt trên thế giới mà lạy, thầm tạ ơn họ về những việc thiện mà họ đã làm. Nhận thấy những người ác thật đáng thương, Ngài lại vì họ mà lạy, mong sao nghiệp chướng của họ được giảm bớt và sớm biết hối cải. Mỗi ngày ngài lại nghĩ thêm những người khác để lạy. Cho nên về sau, bất kể thời tiết, mỗi ngày ngài đều đặn lạy 837 lạy vào buổi sáng và 837 lạy vào buổi tối.
Đến năm Hòa thượng Tuyên Hóa tròn 19 tuổi thì gặp phải tang thân mẫu. Sau khi chu toàn việc mai táng, ngài đến Chùa Tam Duyên lạy Lão Hòa Thượng Thường Trí làm Thầy, và chính thức xuống tóc xuất gia. Sau đó, ngài về lại mộ phần thân mẫu để thủ hiếu trong suốt ba năm. Trong khoảng thời gian đó, ngài sống trong một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tọa Thiền, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa và niệm danh hiệu Phật A-Di-Ðà.
Có lần ngài đang tọa Thiền thì chợt có vị khách đến viếng. Vị khách ấy, ngạc nhiên thay lại chính là Lục Tổ Huệ Năng. Ðức Tổ Sư dạy ngài rằng, trong tương lai ngài sẽ đến Mỹ Quốc để độ sinh, rằng ở Tây Phương Ngài sẽ gặp nhiều kẻ hữu duyên có thể hoằng dương Phật Pháp, và sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh. Mãi đến lúc Ðức Tổ Sư từ biệt quay đi rồi, ngài mới choàng tỉnh, sực nhớ rằng Ðức Huệ Năng vốn là người đời Ðường, từng sống vào khoảng 1.200 năm về trước.