Theo Kinh Ca La Việt Lục Hương Bái: “Thiện tri thức có bốn loại: 1. Bên ngoài giống như oan gia mà bên trong tâm ý nồng hậu; 2. Ở trước người ta thẳng thắn can ngăn, ở nơi khác nói về điều tốt của họ; 3. Uẩn khúc lo lắng kinh sợ dường như vì người ta kinh sợ mà tìm cách giải quyết giùm; 4. Thấy người nghèo hèn tâm không bỏ rơi mà nghĩ cách muốn cho đầy đủ tốt đẹp.
Thiện tri thức khó gặp và đều là bậc Thánh hiện thân. Nay chúng ta đã ở sâu vào thời mạt pháp, thiện tri thức khó gặp vô cùng. Không phải các vị bỏ chúng sanh mà tại chúng ta nghiệp sâu chướng nặng, nên bị che chướng. Dù các Ngài theo bản nguyện độ sanh, có khi ở ngay bên cạnh, mình cũng không biết.
Các thiện tri thức biết rõ căn cơ của mình mà chỉ dạy thì nhanh được kết quả. Còn như không có thiện tri thức mình phải nương theo kinh mà tu học, mới mong khỏi lạc đường. Gặp Thiện Tri Thức khó như thế, cho nên trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật bảo: Gặp được Thiện Tri Thức là một trong hai mươi việc khó của nhân sanh.
- Tự lực và Tha lực niệm Phật.
- Thiên Ma là loại ma gì.
- Cách thay đổi vận mệnh.
- Cách tụng kinh tại nhà.
- Cách niệm Phật tại nhà.
- 10 chuyện Tâm linh có thật.
- Cảnh giới trên bước đường học Phật.
Thiện Tri Thức nghĩa là gì
Kinh Niết-bàn nói: “Tỳ kheo A-nan nói một nửa phạm hạnh gọi là thiện tri thức. Đức Phật dạy: Không phải như vậy, đầy đủ phạm hạnh mới gọi là thiện tri thức”. Đức Phật lại nói: “Thiện tri thức là như pháp mà nói năng, như nói năng mà thực hành. Thế nào gọi là như pháp mà nói năng, như nói năng mà thực hành?
Ấy là tự mình không giết hại sinh mạng, chỉ bày cho người không giết hại sinh mạng; cho đến tự mình thực hành theo chánh kiến, chỉ bày cho người thực hành theo chánh kiến. Nếu có năng lực như vậy thì được gọi là thiện tri thức thật sự. Tự mình tu hành bồ đề, cũng luôn luôn chỉ bày cho tu hành bồ đề; bởi vì nghĩa này cho nên gọi là thiện tri thức. Tự mình luôn luôn tu hành tín giới bố thí đa văn trí tuệ, cũng luôn luôn chỉ bày cho người tu hành tín giới bố thí đa văn trí tuệ; lại bởi vì nghĩa này cho nên gọi là thiện tri thức.
Thiện tri thức là vốn có thiện pháp. Thiện pháp là như thế nào? Ấy là việc đã làm không mong cầu niềm vui riêng mình, thường vì chúng sanh mà mong cầu niềm vui chung tất cả. Thấy người khác có lỗi lầm không xoi mói khuyết điểm của họ, miệng thường nói năng giải thích sự việc chỉ có thiện; bởi vì nghĩa này cho nên gọi là thiện tri thức.
*
Này người thiện nam! Như vầng trăng giữa Trời từ ngày mồng một đến ngày mười lăm dần dần tăng trưởng; thiện tri thức là cũng lại như vậy, làm cho những người học dần dần lìa xa ác pháp để tăng trưởng thiện pháp.
Này người thiện nam! Nếu có người gần gũi với thiện tri thức, ban đầu chưa có Định Tuệ giải thoát – giải thoát tri kiến, thì dần dần sẽ có; chưa được đầy đủ, thì dần dần sẽ được tăng thêm nhiều hơn”. Lại nói: “Thiện hữu nên quán sát: Người này tham dục sân hận ngu si tư giác, tại sao lại nhiều như vậy? Nếu biết là người có nhiều tham dục, thì nên nói cho họ biết về pháp quán bất tịnh; người có nhiều sân hận, thì nói cho họ biết về Từ bi; người có nhiều tư giác, thì bày cho họ biết pháp Sổ Tức; người chấp Ngã nhiều, nên phân tích cho họ biết về mười tám giới…
Nghe rồi tu hành theo thứ tự đạt được bốn niệm xứ, quán sát thân-thọ-tâm-pháp, đạt được pháp quán này rồi theo thứ tự tiếp túc quán sát mười hai nhân duyên. Như vậy quán sát rồi tiếp đến đạt được Noãn pháp, từ khi đạt được Noãn pháp cho đến dần dần đạt được quả vị A la hán – Bích-chi-Phật. Quả vị Bồ-tát Đại thừa – thành tựu Phật đạo đều dựa vào đây mà phát sinh, lại không có gì nghi ngờ vướng mắc, tự lợi mình – lợi cho người, không thêm nước vào sữa, thì gọi là địa vị của Pháp sư thiện tri thức chân thật. Nếu không có đủ như vậy thì không phải là thiện tri thức, là pháp lẫn tạp không thể nương theo”.
*
Vì vậy trong Phật Tánh Luận dẫn kệ trong kinh nói:
Không biết-không nhận thức pháp thiện,
Bạn ác làm tổn hại chánh hạnh,
như con nhện rơi vào trong sữa,
Thì sữa này chuyển thành chất độc.
Vì vậy cần phải chân thật làm lợi ích cho chúng sanh, trước tiên tự điều phục mình rồi sau đó chỉ bày cho người, không có sai lầm vì ít nghe, không có sai lầm vì bỏ thực hành, không có sai lầm vì tán loạn, không có sai làm vì khinh mạn, không có sai lầm vì điên đảo, không có sai lầm vì tham cầu, không có sai lầm vì sân hận, không có sai lầm vì tà hạnh, không có sai lầm vì chấp Ngã, không có sai lầm vì hạnh nhỏ bé; đầy đủ mười pháp này thì gọi là thiện tri thức”.
Thiện Tri Thức giảng giải
Hòa Thượng Tuyên Hóa giản: “Thế nào gọi là “thiện tri thức”? “Tri” là nghe danh (văn danh); “thức” là thấy mặt (kiến diện). “Nghe danh” tức là nghe thấy, biết đến tên tuổi, tiếng tăm; “thấy mặt” tức là biết rõ mặt mày, hình tướng. Vậy, “tri thức” có nghĩa là nhận thức, hiểu biết một cách rõ ràng, tường tận.
Về chữ “thiện,” thông thường thì được xem là đồng nghĩa với chữ “hảo” (tốt), song ở đây thì được dùng theo nghĩa của chữ “năng” (khả năng). Bậc “Thiện Tri Thức” là người có khả năng nhận thức; nhận thức điều gì? Họ có thể nhận thức được những khổ não trong Tam Giới, biết rõ rằng “Tam Giới không yên, như ngôi nhà lửa.”
Có ba hạng Thiện Tri Thức
Có ba hạng Thiện Tri Thức; đó là Ngoại Hộ Thiện Tri Thức, Ðồng Hành Thiện Tri Thức và Giáo Thọ Thiện Tri Thức.
1. Ngoại Hộ Thiện Tri Thức.
Ðây là những vị Thiện Tri Thức từ ngoài đến để hộ Pháp, tự nguyện giúp đỡ người xuất gia xử lý công việc trong chùa. Họ tận tụy hộ trì Tam Bảo, hộ trì Thường Trụ, và hoan hỷ cúng dường mọi vật phẩm mà Thường Trụ cần đến. Nói tóm lại, Ngoại Hộ Thiện Tri Thức là những người ở ngoài nhưng tự nguyện đến chùa để hộ trì người tu Ðạo.
2. Ðồng Hành Thiện Tri Thức.
Thế nào gọi là “đồng hành”? Ðó là cùng nhau tu hành. Hàng Thiện Tri Thức này thường cùng nhau tu tập, và động viên khuyến khích lẫn nhau. Khuyến khích lẫn nhau bằng cách nào?
Bằng cách “đả đồng tham” (đánh bạn cùng tu)—nghĩa là chúng ta cùng tu tập với nhau thì quý vị giúp tôi, chỉ cho tôi rõ những lỗi lầm của tôi; và tôi giúp quý vị, chỉ cho quý vị rõ những sai sót của chính quý vị. Bởi con người thường có khuynh hướng không tự thấy được cái sai của chính mình, nếu nhờ người khác tìm giùm thì dễ dàng hơn! Thói thường,
“Người trong cuộc thì mê, kẻ ngoại cuộc thì sáng.”
Ở cương vị của người trong cuộc, lắm lúc chúng ta bối rối, không thấy được mình đúng hay sai; trong khi đó, người ngoại cuộc thì do đứng ngoài, không dính líu đến sự việc, nên cái nhìn có sáng suốt hơn. Vì vậy, mọi người thường có thể hỗ tương thấy rõ khuyết điểm của nhau hơn—quý vị thấy rõ được cái sai của tôi, tôi thấy rõ được cái sai của quý vị.
*
Tuy nhiên, “đả đồng tham” có nghĩa là quý vị nêu ra những sai sót của tôi để tôi biết mà sửa đổi, tôi kể lại những sai phạm của quý vị để quý vị rõ mà sửa mình; chứ không phải là quý vị phát hiện cái sai của tôi thì tôi liền đùng đùng nổi giận, tôi khám phá ra tội lỗi của quý vị thì quý vị lại gây gỗ lôi thôi! Chúng ta chẳng những không được nóng nảy giận dữ, mà còn phải bình tâm tĩnh trí nghiên cứu lỗi lầm của nhau để bổ khuyết cho nhau nữa. Ðó gọi là hỗ tương khích lệ, sách tấn lẫn nhau, giúp nhau tinh tấn tu tập, cùng nhau trau giồi rèn luyện.
Trong Ngũ Kinh, sách Ðại Học có câu:
Như gọt như giũa, như trau như chuốt.”
Như người thợ ngọc tỉ mỉ dùng dao đẽo gọt từng chút một, sau đó phải dùng giũa để mài đi chuốt lại thật công phu, miếng ngọc thô sơ mới trở thành một món trang sức bằng ngọc xinh đẹp, quý giá; hai người bạn cùng nhau “đả đồng tham,” nghĩa lý cũng tương tự như thế. Chúng ta phải hỗ tương “trau giồi mài giũa”—bạn tìm khuyết điểm của tôi, tôi tìm khuyết điểm của bạn, để rồi cùng giúp nhau sửa đổi. Người chân chánh tu hành nhất định phải nuôi dưỡng một tinh thần như thế. Ðó là nói về bậc Ðồng Hành Thiện Tri Thức.
3. Giáo Thọ Thiện Tri Thức.
Những người giảng Kinh thuyết Pháp, truyền bá và hoằng dương Phật Giáo, giáo hóa chúng sanh… được gọi là bậc Giáo Thọ Thiện Tri Thức.
Hòa Thượng Tuyên Hóa lại giảng thêm: “Nói một cách đơn giản, Thiện-tri-thức tức là người có trí huệ, ác tri thức tức là người ngu si. Thiện-tri-thức thì có chính tri chính kiến, ác tri thức thì có tà tri tà kiến, hiểu biết sai lầm, tà vạy. Nếu điều gì hợp với Phật Pháp thì đó là chính tri chính kiến, hiểu biết chân chính. Nếu điều gì không hợp với Phật Pháp thì là tà tri tà kiến. Thiện-tri-thức là người dựa vào Phật Pháp mà tu hành, ác tri-thức thì dựa vào ma pháp để tu hành. Thiện, ác khác nhau, phân biệt là ở chỗ này.
Bậc Thiện-tri-thức thì dùng Tứ Nhiếp Pháp để giáo hóa chúng sanh. Thế nào là Tứ Nhiếp Pháp? Tức là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Bốn pháp này có thể dễ dàng hòa hợp với chúng sanh, làm cho chúng sanh đối với Phật Pháp phát tâm hứng thú, tin sâu nơi Phật Pháp.
- Bố-thí: Muốn cho người ta tin Phật Pháp thì mình cần phải bố thí vật và giáo lý, làm cho họ đối với mình phát sanh thiện cảm.
- Ái ngữ: Lời nói không có đi ngược lại với nhân tình, không có đi ngược lại với Phật Pháp, lời mình nói ra thì nhân từ đạo đức.
- Lợi hành: Lời nói, hành động và suy nghĩ tùy duyên tu hành khiến chúng sanh được lợi ích.
- Ðồng sự: Ðối với những chúng sanh đáng được độ, thì làm công việc giống như họ để giáo dục họ.
*
Ðó là bốn Pháp giúp mình gây thiện cảm và tín nhiệm đối với chúng sanh. Nếu lời nói mình nhất trí với hành động, vì lợi ích chung không vì riêng tư, lấy thân làm gương, gặp chuyện nghĩa thì dũng mãnh mà làm, như vậy chúng sanh tự nhiên sẽ tin ở lời nói của mình và cũng tin rằng Phật Pháp chính là con thuyền thoát khỏi biển sanh tử.
Các bạn tới đây để nghe giảng kinh thuyết pháp, mỗi vị ai cũng là bậc đại tri thức. Các bạn nên hiểu rằng Bồ-đề tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh. Xưa nay thanh tịnh nghĩa là không có tạo lập một thứ gì, cũng không bị nhiễm ô bởi một thứ gì. Bồ-đề tự tánh này chẳng cần tạo tác thêm, vốn hiện tiền như vậy, vốn đầy đủ xưa nay. Bồ-đề tự tánh này cũng chính là Phật tánh.
Ðiểm này xin các bạn đặc biệt chú ý! Mỗi người cũng ai có Phật tánh giống hệt như của Phật vậy, chẳng gì khác biệt. Bất quá mình ngu si nặng nề, bị vô minh vọng tưởng che lấp, nên Phật tánh không thể hiện tiền. Nếu dùng trí huệ để xử lý mọi chuyện thì Phật tánh sẽ hiện tiền. Lúc đó bạn chính là vị Thiện-tri-thức.”
Thiện Tri Thức khó gặp như thế nào
Theo Niệm Phật Thập Yếu, Tổ Thiền Tâm dạy: “Nay Như Lai đã nhập diệt, các bậc thiện tri thức thay thế Phật ra hoằng dương đạo pháp, nếu thân cận nghe theo lời khuyên dạy tu hành, tất cũng được giải thoát. Nhưng kẻ căn lành sơ bạc, gặp thiện tri thức cũng khó. Dù có duyên được thấy mặt nghe pháp, song nếu không hiểu nghĩa lý, hoặc chấp hình thức bên ngoài mà chẳng chịu tin theo, thì cũng đều vô ích.
Theo Kinh Phạm Võng và Hoa Nghiêm, muốn tìm cầu thiện tri thức, đừng câu nệ theo hình thức bên ngoài; như chớ chấp kẻ đó trẻ tuổi, nghèo nàn, địa vị thấp, hoặc dòng dõi hạ tiện, tướng mạo xấu xa, các căn chẳng đủ, mà chỉ cầu người thông hiểu Phật pháp, có thể làm lợi ích cho mình. Lại đối với bậc thiện tri thức chớ nên tìm cầu sự lỗi lầm, bởi vị đó có khi vì mật hạnh tu hành, vì phương tiện hóa độ, hoặc đạo lực tuy cao song tập khí còn chưa dứt, nên mới có hành động như vậy.
Nếu chấp nê hình thức, tìm cầu lỗi lầm, tất không được lợi ích trên đường đạo. Khi Phật còn tại thế, ngài Ca Lưu Đà Di có thói quen miệng nhơi qua nhơi lại như trâu; Tỳ Khưu Ni Liên Hoa Sắc tánh ưa soi gương trang điểm; một vị Tỳ Khưu thích leo lên cây nhảy chuyền; một vị Tỳ Khưu khác nói với ai, ưa lên giọng xưng mi tao lớn lối.
*
Nhưng sự thật bốn vị này đều đã chứng quả A La Hán cả. Bởi kiếp trước một vị làm thân trâu, một vị là kỷ nữ, một vị làm thân khỉ, một vị là dòng quí tộc Bà La Môn, nhiều đời ở trong hoàn cảnh đó, đến nay tuy đắc quả song tập quán dư thừa hãy còn. Lại như đức Lục Tổ vì thấy người học Phật thời ấy ưa chấp nói theo kinh văn, không nhận ngay Phật tánh, nên mới thị hiện làm kẻ dốt, không biết chữ.
Ngọc Lam thiền sư vì muốn tránh duyên để tu hành, nên mới giả làm người điên cuồng, quần áo lôi thôi, ăn nói không chừng độ. Hư Vân hòa thượng vì thấy người thời mạt pháp, phần nhiều thân xuất gia, mà tâm không xuất gia nên tuy đã ngộ đạo mà thường để râu tóc, mật ý chỉ cho “đạo” không phải ở nơi đầu tròn áo vuông.
Nhưng đương thời của các vị ấy, cũng có nhiều kẻ chê bai chỉ trích đức Lục Tổ là dốt nát, ngài Ngọc Lam là điên khùng, Hư Vân thượng nhơn là người phạm quy luật thiền môn. Cho nên nhìn tìm bậc thiện tri thức khó là như thế. Mấy điều này người học Phật cũng nên hiểu, để bớt sự cố chấp và tránh lỗi khinh báng Tăng Ni. Còn các việc khó kia, có thể suy ra để hiểu.
*
Tuy nhiên, khó và dễ là pháp đối đãi, trong khó có dễ, trong dễ có khó. Nếu nhận hiểu và quyết tâm thì các việc khó chẳng phải không thể làm được. Như thuở đời Phật Tỳ Bà Thi, có hai vợ chồng ông Kế La Di, nghèo đến đổi mặc chung một chiếc khố; khi chồng đi làm vợ phải lõa thể đóng cửa ở nhà, vợ thay phiên đi làm thì chồng cũng y như vậy. Nhưng khi nghe chư tăng đi khuyến hóa, bảo bố thí sẽ có phước tránh cảnh nghèo khổ; hai vợ chồng bàn luận nhau đem chiếc khố duy nhứt ấy trao qua cửa sổ bố thí; đành cam cùng chịu lõa thể đóng cửa nằm chết trong nhà.
Do sự quyết tâm làm lành đó, khiến cho vị quốc vương hay được, đem y phục tiền của giúp đỡ. Từ đó về sau, mỗi đời sanh ra, hai vợ chồng đều có y phục tùy thân; và sau cùng đều chứng đạo quả. Cho nên tuy nghèo khổ, bố thí là khó. Nhưng nếu hiểu cái nhân nghèo nàn do bởi không bố thí, rồi quyết tâm cam chịu thiếu kém khổ cực đem của riêng để tu phước, tất việc bố thí cũng có thể làm.
*
Lại như vua Thuận Trị nhà Thanh, lên ngôi hồi sáu tuổi; hai mươi bốn tuổi từ bỏ vương vị, theo Ngọc Lâm quốc sư đầu Phật xuất gia. Làm một vị hoàng đế giàu sang tột bực; ở lầu rồng gác phượng ăn hải vị sơn hào; phi tần có cả hàng ngàn trang tuyệt sắc giai nhơn; quyền lực nắm cả thần dân trong một nước, sự phú quý còn chi hơn? Nhưng nếu nhận rõ sự phước lạc thế gian vô thường như mộng huyễn, cảnh chân như thường tịch mới thật là vui,; thì tuy nói giàu sang học đạo là khó, song đã quyết tâm tất cũng có thể thật hành. Ngoài ra, nghèo khổ quá tu hành vẫn thật khó, nhưng nếu có chí cũng chẳng phải không làm được.
Như thuở Phật Thích Ca còn ở đời, có một bà lão rất nghèo khổ. Bà ở mướn cho người từ hồi mười ba tuổi, đến tám mươi tuổi cũng còn vất vả. Ban ngày làm việc không ngơi nghỉ, đêm nào cũng phải giả gạo đến canh hai; gà gáy sáng đã thức dậy quây quần bên cối xay bột.
Hoàn cảnh cực nhọc không rãnh rỗi như thế, muốn tu hành là một sự vạn nan. Nhưng nhờ tôn giả Ca Chiên Diên khuyến hóa, nên mỗi buổi tối sau khi giả gạo xong, bà tắm rửa thay đổi y phục, ngồi tu niệm đến quá nửa đêm mới đi nghỉ. Nhờ sự quyết tâm cố gắng đó, mà sau khi chết bà được sanh lên làm vị thiên tử ở cung trời Dạ Ma.”
Học Phật thế nào khi không có Thiện Tri Thức chỉ dạy?
Về vấn đề này, Ngài Trí Tịnh bảo: “Mình ở thời này thiện căn kém, không có phước đức nhiều, thời mạt pháp đã vào sâu rồi. Nếu gặp ác tri thức hay tri thức thường, có hại, không được lợi ích. Thiện tri thức khó gặp, phải là bậc Thánh hiện thân, như xưa có Thiền Tổ gặp thầy đắc đạo. Bây giờ đi sâu vào mạt pháp rồi, thầy thiện tri thức là Hiền, là Thánh khó gặp lắm!
Không phải các vị bỏ mình tại mình phước kém, chướng sâu. Các vị hiện thân phải theo nhân duyên. Duyên chúng sanh đáng được gặp mới gặp; còn chúng sanh không có duyên gặp, dù các vị có đến, mình cũng theo người tầm thường. Mình thích người tà, người sai hơn, còn người chánh mình không thích.
*
Như vậy muốn không lạc đường thì nương theo kinh mà thôi, nhứt định theo kinh. Vì bây giờ kinh có nhiều rồi. Ngày xưa còn khó vì kinh phải chép tay, in bảng gỗ. Nhưng lúc ấy thiện tri thức đầy rẫy mà đến với các vị thầy đó, không cần kinh gì cả; họ chỉ dạy mình là được. Bây giờ kinh phổ thông rồi, không có thiện tri thức thì mình phải siêng, tìm hiểu kỹ lắm mới được; nếu sai một chút là có hại lớn.
Các thiện tri thức biết rõ căn cơ của mình mà chỉ dạy thì được kết quả. Còn mình bây giờ phải nương theo kinh, đừng cố chấp. Mình tu pháp môn gì cũng không nên bài bác những người tu các pháp môn khác; vì tất cả pháp môn đều của Phật dạy. Thiền, niệm Phật, bố thí, trì giới đều của Phật dạy. Mình bài bác là bài bác pháp, bài bác Phật, tội này không nhẹ, nên lưu ý.”
Tuệ Tâm 2021.