Phép thuật có thật hay không? Nhân buổi trà dư bạn hỏi, tôi trả lời: Có thật! Người bình thường nghe có vẻ lạ và khó tin, nhưng với người am hiểu Phật pháp thì phép thuật có thật và cũng chẳng có gì là kỳ đặc cả, đây vốn chỉ là một phương tiện dùng để độ sanh không hơn không kém.
Lại Đức Phật nghiêm cấm việc thi triển Phép thuật, nên từ cổ chí kim, người đắc Thần thông rất nhiều, nhưng cực ít người thị hiện. Nếu bắt buộc thị hiện, thì phải tuân thủ theo nguyên tắc bất di bất dịch: Làm phương tiện giúp đời, độ sanh, khiến người quy hướng Chánh pháp, để tìm đường lìa xa tam giới. Phật tử tu hành, hoặc Niệm Phật, hoặc trì Chú, hoặc tụng Kinh tham Thiền, nếu giữ giới tinh nghiêm thì khả năng thần thông tự khai mở, nhưng phải xem thần thông như đôi dép rách thì mới mong có ngày giải thoát. Bằng không, thần thông như con dao hai lưỡi, nhập ma dễ như chơi!
Thần thông là một thuật ngữ của Phật pháp, dân gian hay gọi là phép thuật. Mặc dù khá khiên cưỡng, nhưng để gần gũi với người đọc, Tuệ Tâm tôi xin sử dụng từ theo lối dân gian trong bài viết này. Xin trích đăng những câu chuyện có thật về Phép thuật của ba bậc Chân tu trong thế giới cận đại, cho người hữu duyên. Mục đích không phải truyền bá ham muốn về phép thuật, mà đơn thuần chỉ là một góc nhìn về các cảnh giới và giúp người vững tin nơi chánh pháp của Như Lai.
*
Nguyện những ai có nhân duyên đọc bài này đều hiểu rằng: Nhân quả không hư dối, vô lượng kiếp đến nay chúng ta trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, không khổ nào, không cõi giới nào, không thân nào chưa từng trải qua, từ đó phát tâm trì niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, cùng nương vào Bản nguyện của Phật A Di Đà, vãng sinh Tây Phương Tịnh Độ, vĩnh viễn lìa xa Tam giới!
- Sự thật về hạn Tam tai.
- Hội Long Hoa là gì.
- Cách thay đổi vận mệnh.
- Âm đức là gì.
- 10 chuyện Tâm linh có thật.
- 10 chuyện nhân quả báo ứng có thật.
- 10 Chuyện nhân quả báo ứng có thật.
Phép thuật có thật không
Tổ Thiền Tâm là một “Hóa thân của Bồ Tát”, vì bi tâm độ sanh khẩn thiết, nên thị hiện nhục thân để độ sanh nơi mảnh đất Việt Nam bé nhỏ này. Công đức phiên dịch Kinh và độ sanh của Ngài không bút mực nào có thể tả hết được. Cuộc đời và đạo hạnh của Ngài được đệ tử ghi lại, có vô số những điều thần dị, kỳ bí. Ngài đúng là vị Hoà Thượng có nhiều huyền thoại lạ lùng nhất, trong các vị cao tăng Việt Nam cận đại. Sách “Vô Nhất Đại Sư Kim Xà Thánh Giả” ghi:
“Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, sinh năm 1924, tại làng Bình Xuân, quận Hoà Đồng, Gò Công. Xuất gia từ năm 13 tuổi. Năm 1964, Hoà Thượng là Viện Trường Sáng Lập Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm. Hoà Thượng Thích Thanh Từ, vị thiền sư nổi danh tại VN hiện nay, và Hoà Thượng Thích Bửu Huệ, lúc đó là hai vị phụ tá của Hoà Thượng Thiền Tâm.
“Hương Quang tịnh thất” là nơi của cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm ẩn tu. Nơi này không nằm sát ngoài quốc lộ như đa số nhà của các người kinh khác, mà lại nằm sâu bên trong, sát với khu vực của người Thượng. Cho nên muốn vào đến chỗ trụ xứ của ngài thì phải đi bộ một khoảng đường rất xa mới tới. Vùng Phú An này (vào thời gian 1968) là nơi rừng núi, ít người lai vãng. Lại ở gần sông suối nên có rất nhiều loại rắn khác nhau.
*
Theo lời ngài kể lại, thì trong gần nửa năm đầu tiên về ẩn tu nơi đây, ngài gặp nhiều thứ rắn độc khác nhau, to có, trung bình có, nhỏ có. To thì cỡ bằng cột nhà, trung trung thì bằng bắp vế, nhỏ thì bằng bắp chân, cườm tay trở xuống v.v… Có đôi lúc sau khi làm vườn xong. Khi Ngài trở vào thất thì thấy rắn nó quấn đuôi trên ngạch cửa. Nó thòng mình xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè. Ban đầu ngài cũng có ý sợ, chần chờ không dám bước qua.
Nhưng rồi nghĩ không lẽ đứng ở ngoài sân hoài, dùng cây đập đuổi thì gây thù oán khó lòng. Thôi thì cứ niệm Phật mà bước ngang qua đại. Rủi có bị nó cắn chết thì mình cũng quy Tây, càng tốt chớ sao! Rồi ngài nhiếp tâm niệm Phật và nghĩ đến phép “từ bi quán”, đoạn nhắm mắt đi ngang qua cửa. Con rắn “đánh đu” mình qua bên này, bên kia, chạm vào mặt vào cổ lạnh ngắt mà ngài vẫn làm thinh bước đi. Khi vào trong thất mở mắt nhìn lại thì nó cũng vừa buông mình ra, rớt xuống đất nghe một cái đụi rồi bò ra ngoài rừng đi mất.
Phép Thuật có thật không: Đụng ổ rắn thần
Lại có lần khác, sáng sớm thức dậy. Vừa bước chân xuống “đơn” thì ngài đạp trúng phải vật gì tròn tròn và mềm mềm. Ngó xuống thì thấy một con rắn hổ đen thui, to bằng bắp chân, đang nằm khoanh một đống ở dưới chân giường! Ngài nghĩ: Cha chả, mình đạp trúng nó một cái mạnh như vậy, chắc nó cắn mình quá. Liền niệm Nam mô A Di Đà Phật năm bảy câu rồi đứng chết trân tại chỗ chớ không dám nhúc nhích.
Còn con rắn kia dù bị ngài đạp trúng nhưng không có phản ứng gì hung hăng hết. Nó cất đầu lên nhìn ngài một hồi, rồi le cái lưỡi đỏ lòm ra khè khè mấy cái, đoạn nằm im trở lại. Lúc đó ngài mới dám bước đi, vừa mở cửa ra vừa niệm Phật mà bảo với y ta rằng:
“Thôi sáng rồi, đạo hữu cũng nên về đi để cho thầy còn niệm Phật nữa.”
Tưởng đâu nói khơi khơi vậy rồi thôi, không dè y ta dường như biết nghe nên chầm chậm bò ra ngoài rừng mất dạng.
Một lần khác, đêm đó ngài niệm Phật và trì chú Đại bi đến khuya mới xong. Vừa bước chân xuống cầu thang thì đạp phải một đống đen thui, to tướng. Ngài biết chắc là rắn nên niệm A Di Đà Phật một hồi, đoạn bước đến bàn viết. Vặn đèn cho tỏ để xem thì thấy một con rắn quá to đang cuộn tròn một đống bên cạnh đôi dép của mình. Nó nhìn ngài, ngài nhìn nó.
*
Hai bên làm thinh ngó nhau một chặp, ngài vừa niệm Phật vừa hỏi y ta rằng:
– Phải đạo hữu vào đây để nghe kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải vậy thì gật đầu ba cái cho thầy biết đi.
Rắn ta liền gật đầu 3 cái. Ngài biết đây là loại rắn linh cũng ưa tu niệm chớ không có ý gì muốn làm hại mình. Cũng như các lần trước, ngài mở cửa ra bảo thôi đạo hữu hãy về đi. Y ta nhìn ngài với ánh mắt hiền lành rồi từ từ bò ra ngoài đi mất. Từ đó trở đi, mỗi lần làm vườn hay tình cờ gặp phải các “người bạn dài thoòng, thấy dễ sợ” này, thì ngài niệm Phật cho nó nghe một hồi. Rồi mạnh đường ai nấy đi, việc ai nấy làm chớ không có xảy ra chuyện gì khác lạ cả.
Biết vùng này có nhiều loại rắn linh mến mộ tu hành nên ngài làm pháp “Du già thí thực”. Hồi hướng công đức tu niệm của mình để bố thí đến cho loài rắn và nói rằng:
– Từ nay nếu như quý vị muốn nghe kinh chú và niệm Phật để tu theo thì cứ ở ngoài sân, đừng có vào trong thất của thầy nữa.
*
Sau vài lần “truyền lịnh” như thế thì từ đó về sau, tuyệt nhiên không còn có một con rắn nào vào trong cốc nữa. Nơi miền rừng núi cao nguyên này, có rất nhiều gò mối lớn. Chính cái thất mà ngài đang ở (Phương Liên thất) cũng nằm trên một gò mối lớn. Hầu hết gò mối đều là ổ hang của rắn cả. Gò mối càng lớn bao nhiêu thì rắn ở trong đó càng nhiều và càng to bấy nhiêu.
Như vừa lược qua, căn tịnh thất của ngài ở được xây cất trên một gò mối lớn (đã được san bằng). Vì vậy trên mặt đất thì Ngài ở, còn dưới mặt đất là rắn ở. Hòa Thượng đã vô tình “sống chung hòa bình” với cả đống rắn độc mà không hay biết.
Mỗi tối, khi ngài niệm Phật, trì chú, hoặc lễ bái, sám hối, tụng kinh thì các “y ta” nằm im ở dưới nền nhà. hoặc là bò lên mặt đất, rồi ẩn hình nằm tại chỗ để nghe và tu theo. Đây là lý do vì sao mà khi ngài mới dọn về, dưới chân giường, cầu thang…có rắn xuất hiện. Con nào con nấy dài đến cả mấy thước, to bằng bắp vế. Nằm một đống đen thui trong cốc mà ngài không hiểu vì sao nó lại vào thất được, trong khi ngài đã đóng cửa nẻo kỹ lưỡng hết rồi.
Phép Thuật có thật không: Linh thông biến hóa
Nhờ tu theo bằng cách dựa hơi hòa thượng, các “ông dài” này dần dần trở nên linh thông, có phép thuật biến hóa. Do vì cái ơn trọng đại đó, cho nên các “y ta” kính lễ Ngài như bậc cha, thầy. Còn các “y ta” thì giữ bổn phận của con, cháu hay đệ tử. Vì thế nên từ đó về sau các loài rắn này trở nên hiền hòa. Chúng không làm phiền gì mà còn âm thầm theo bảo vệ cho “Sư Phụ” nữa.
Có lần, cố Hòa Thượng đang ngồi làm cỏ tranh và xới đất bên cạnh một gò mối lớn ở phía sau thất. Lúc quơ tay ra sau lưng để cầm cuốc thì ngài lấy làm lạ rằng: Ủa, sao bữa nay cái cán cuốc có vẻ là lạ và bự quá vậy?
Ngài quay đầu ngó lại thì té ra là mình đang nắm nhằm cổ của một con rắn to bằng bắp chân người lớn, màu đen có sọc vàng. Rắn ta vì bị nắm cổ nên hả miệng, le lưỡi ra khè khè năm sáu tiếng làm cho ngài hết hồn . Ngài buông tay và lùi lại phía sau, niệm Phật cả mấy chục câu mới định thần được. Xong ngài đứng ngó y ta một lúc và nói rằng: Ủa nhà ngươi ở đâu mà ra đây, nằm sau lưng ta hồi nào vậy? Thôi hãy đi đi. Ngài lấy tay xua, khởi ý đuổi đi. Rắn ta cũng ngó ngài, gật đầu mấy cái rồi bò ra phía sau gò mối.
Gặp rắn chúa ngàn tuổi
Ngài đứng ngó theo xem nó bò đi đâu nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy tăm hơi gì hết, mới nghĩ: Ủa, bộ nó còn nằm gần đây sao mà không thấy bò đi đâu hết vậy kìa? Ngài đi vòng quanh gò mối, tìm kiếm mấy lần mà cũng không thấy y ta đâu hết.
Khuya lại, sau thời khóa trì niệm (gần 4 giờ sáng). Ngài đang ngồi trên ghế bên cạnh bàn viết, định bụng chút nữa sẽ pha cà phê uống thì nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Ngài lấy làm lạ, trong bụng nghĩ rằng: Ủa, giờ này còn sớm quá mà sao Thượng lại tới gõ cửa vậy kìa?
Ngài mới đứng lên, đi ra mở cửa thì thấy: Bên ngoài là hai người Thượng, một nam một nữ, tuổi chừng 50, dung mạo rất đơn sơ. Mặt mũi sần sùi, da dẻ đen đúa, cả hai đều mặc quần áo màu chàm trông cũng rất sơ sài, đầu hơi nhọn, đi chơn đất. Bàn tay nhám nhúa giống như có vảy, chắp tay, cúi đầu chào ngài, miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Ngài nghĩ bụng: Ủa, hai người Thượng này ở đâu đến mà thấy lạ mặt. Mình ở đây cũng đã lâu rồi mà chưa quen với hai vợ chồng này. Ngài hỏi:
– Phải hai vị đến xin việc làm hôn?
Hai người ấy đáp:
– Mô phật, kính bạch Hòa Thượng không.
– Ủa, vậy chớ có chuyện gì cần không mà gọi cửa tôi sớm quá vậy?
*
Người đàn ông đáp:
– Bạch Hòa Thượng, hai vợ chồng con đến đây để xin lỗi Hòa Thượng về chuyện đáng tiếc ban trưa. Có đứa cháu nội đã làm cho ngài giật mình. Xin Hòa Thượng từ bi tha lỗi và cho vợ chồng con sám hối.
Cố Hòa Thượng lấy làm kỳ, nên ngài mới hỏi:
– Cháu nội của hai vị hả, hồi nào, nó bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ suốt cả ngày hôm qua có gặp đứa cháu nào đâu!
Người đàn bà đáp:
– Kính bạch Hòa Thượng. Cháu trai của con là đứa bé hôm qua mặc áo quần đen có sọc vàng. Nó nằm hầu phía sau lưng lúc ngài làm vườn đó.
Ngài mới hỏi
– Vậy hả, cháu bé bao nhiêu tuổi?
Người đàn bà đáp:
– Kính bạch Hòa Thượng, cháu được 95 tuổi!!!
Cố Hòa Thượng của chúng ta giật mình, thảng thốt hỏi tiếp:
– Ủa, cháu nội mà được 95 tuổi thì hai vị đây bao nhiêu tuổi?
Người đàn ông đáp:
– Dạ con được 842 tuổi và vợ của con 760 tuổi!
Đến đây thì Hòa Thượng đã biết rõ họ là ai rồi, nên ngài mới hỏi tiếp:
– Hai vị ở đâu tới đây?
Người đàn ông thưa:
– Bạch Hòa Thượng, chúng con ở Huỳnh Xà Thôn nằm về phía Đông của thôn Phú An này cách nơi đây khoảng 9 cây số, gia đình con có khoảng một ngàn người.
*
Vừa nói tới đây thì người đàn bà nắm lấy tay của ông chồng dặt dặt mấy cái như ra hiệu đừng nên nói nữa (chắc sợ bị lộ tông tích). Làm cho người chồng mới nói đến câu: khoảng một ngàn người… thì làm thinh luôn. Cố Hòa Thượng gật đầu nói:
– Thôi hai vị yên lòng về đi, không sao đâu.
Nghe ngài bảo như vậy thì hai vợ chồng người này đồng chắp tay cúi chào rồi quay lưng đi vòng ra sau thất của ngài. Hòa Thượng mới nom theo xem họ đi đâu và làm thế nào cho biết, thì ngài thấy khi họ ra đến phía sau rồi, cả hai người đồng hóa ra hai luồng ánh sáng màu vàng nhạt lớn bằng cườm tay, bay bổng lên không về hướng Đông đi mất (giống như ông đi, bà xẹt vậy).
Do đó nên ngài biết rằng: Đứa bé 95 tuổi mặc áo đen, sọc vàng là con rắn đen có vằn vàng, ngày hôm qua đã làm cho mình hết hồn! Hai vợ chồng này là rắn chúa. Hang ổ chánh của họ nằm về hướng Đông của ấp Phú An, cách đây 9 cây số có tên là “Huỳnh Xà Động”. Chắc có lẽ họ mới biết phép thuật biến hình, nên dung mạo còn thô sơ chớ chưa đẹp người. Và hơn nữa chắc mỗi đêm họ ít nhiều đến đây nghe kinh và tu theo mình nên mới có vẻ kính trọng mình và biết chắp tay niệm Phật như vậy.
*
Nguyên gần 10 năm về trước, lúc cố Hòa Thượng còn nhập thất ở Bến Tre, ngài có quen với một vị tu sĩ tên là “Ông sư Mỏ Cày”. Sở dĩ gọi là ông sư Mõ Cày vì vị này tuy có hình tướng một nhà sư Phật giáo, nhưng thật ra là một người đạo sĩ tu tiên luyện phép thuật theo phương pháp xuất hồn. Địa danh nơi ông sư này ở tu tên Mõ Cày, không ai biết được tên thật của ổng là chi hết.
Ông sư này rất kính quý cố Hòa Thượng qua phong cách và đạo hạnh của ngài, nên thỉnh thoảng cũng có đến viếng thăm. Hòa Thượng cũng có chỉ dẫn thêm cho sư một vài pháp tu bổ túc, vì vậy mà sư có một sự mang ơn ở nơi cố Hòa Thượng.
Lúc ngài về Sài Gòn và làm Đốc giáo ở Phật Học Viện Huệ Nghiêm rồi thì sư cũng có đến thăm một lần. Đến khi cố Hòa Thượng lìa Huệ Nghiêm để ẩn tu thì hai đàng biệt nhau.
Mấy năm sau, sư mới tìm được lên Đại Ninh để thăm cố Hòa Thượng. Lần đầu tiên sư lên thăm cố Hòa Thượng vào năm 1970. Qua đêm đầu tiên, sáng lại sư có thưa với cố Hòa Thượng rằng thất của ngài đang ở tu nằm trên miệng hang của một động rắn “Kim Xà” rất lớn. Ông nói Hòa Thượng cẩn thận vì đây là các loại rắn thần con nào con nấy cũng sống trên mấy trăm năm. Ngài nói với sư là ngài đã biết việc đó từ lâu và cũng kể lại cho sư nghe về vài ba chuyện của các Kim Xà này.
Phép Thuật có thật không: Xuống động Huỳnh Xà
Qua ngày kế, sư nằm ngủ và dùng phép thuật xuất hồn ra đi “thăm” xà động này. Khi thức dậy sư có thưa cùng ngài như sau: Nguyên từ mặt đất của nền thất Phương Liên đi thẳng xuống dưới sâu 800 thước có một động rắn lớn. Trong đó có khoảng 200 “ông dài” đều sống từ hơn 100 cho đến gần 1000 tuổi hết. Động này có đường (hầm) thông qua 3, 4 động khác nữa. Chúa tể của tất cả các động rắn này là một đôi Xà Vương (rắn chúa) màu nửa đen, nửa vàng và đều đã được trên một ngàn tuổi.
Cặp Xà Vương này hiện đang ở ngay dưới nền thất của cố Hòa Thượng cùng với các con cháu. Mỗi đêm có đều nghe ngài niệm Phật, trì chú và tu theo, cho nên biết phép thuật biến hóa. Chúng thờ cố Hòa Thượng làm thầy để nương theo tu tập. Sư kể tiếp rằng, khi sư xuất hồn ra gặp hai vị Xà Vương động chúa này thì mấy vị đó có nhờ sư về thưa lại với ngài là họ muốn được quy y Tam Bảo cho được sớm thoát khỏi kiếp rắn.
Họ nói rằng trước kia họ chỉ có sống lâu thôi, chớ không biết phương cách tu hành (vì rắn lột da cho nên sống lâu lắm). Cứ ban ngày thì ngó mặt trời, ban đêm thì ngó theo trăng, sao. (Tu theo phép thuật luyện âm dương nhị khí). Nên mặc dù sống hơn cả ngàn năm rồi mà vẫn không sao luyện được phép thuật biến hóa.
*
Từ khi cố Hòa Thượng về ở đây tu, mấy năm trôi qua cũng nhờ nương theo oai lực chú ấn và câu niệm Phật của Hòa Thượng mỗi đêm, cho nên nay đã bắt đầu biến hóa được rồi và thân mình cũng đã đổi từ màu đen ra màu hơi vàng (tức là từ Hắc Xà vương chuyển dần sang Kim Xà vương). Hiện thời thì hai vị đó đang cùng với các quyến thuộc đều ẩn hình ở tại đây để tu và ngầm bảo vệ cho ngài là bậc đại sư của họ.
Hòa Thượng gật đầu và nhờ chuyển lời lại là hôm sau Hòa Thượng sẽ truyền phép Tam Quy, để cho họ được dự vào hàng Phật Tử. Hôm sau, Hòa Thượng đắp y hậu, ngồi trên pháp tòa bày sẵn giữa tịnh thất, trì chú và bắt ấn triệu thỉnh, chỉ đích danh 2 vị Xà Vương chúa động Huỳnh Xà thôn gọi về…
Liền sau đó ngài thấy trước mặt mờ ảo ẩn hiện ra hai vị xà thần bò vào và hiện hình ra hai người một nam, một nữ, khoảng ngoài 60. Cả hai đều mặc áo ngắn màu vàng luốc, quỳ trước mặt chắp tay cúi đầu phụng mạng. Hòa Thượng thuyết Tam Quy cho nghe và quy y cho họ cùng các quyến thuộc. Sau đó Ngài đốt chú ấn để pháp thí cùng rải nước cam lồ xoáy tịnh, chú nguyện cho họ sau khi thoát kiếp rắn đều được sanh thiên, y như Phật Pháp tu hành.
*
(Kể từ đây ngoài các đệ tử thuộc về nhơn đạo ra, ngài còn có thêm các đệ tử thuộc về thần đạo và súc đạo nữa. Việc làm này những tăng ni chỉ biết tụng kinh, cầu phước qua ngày. Không lòng tin, không có cảm ứng đạo giao với cảnh giới vô hình đều không thể nào hiểu thấu được cả).
Ngoài ra cố Hòa Thượng cũng còn có quy y cho chư thần địa phương như thổ thần, sơn thần, thọ thần… Các vị này cũng đều đồng nương theo ngài để tu tập hết. Đến năm 1974, Sư Mõ Cày có lên thăm Ngài một lần nữa. Sư có thưa cùng với cố Hòa Thượng mấy điều sau:
1. Về tình hình đất nước vào năm tới (1975) sẽ có một sự “đổi đời” rất lớn, vô số người chết. (Tức là biến cố tháng 4 năm Ất Mão 1975).
2. Sư có xuất hồn ra gặp lại các Xà Thần và biết được mấy năm qua nhờ quy y Tam Bảo và tu theo phép của ngài truyền cho khi trước nên bây giờ đều được phép thuật biến hóa linh thông. Từ Hắc Xà Vương nay đã chuyển ra thân Kim Xà Vương. Họ thường hay biến thành hình sư mặc áo vàng, mỗi đêm đi kinh hành niệm Phật chung quanh thất của Hòa Thượng. Vừa là hầu hạ, vừa là bảo vệ cho ngài trong tất cả mọi hoàn cảnh.
Mấy đêm sau, qua sự trung gian của vị sư Mõ Cày, ngài mới cho triệu hai vị Chúa Động này về.
Phép Thuật có thật không: Triệu thỉnh xà thần
Đêm đó Ngài thấy bên ngoài có hai vị, một tăng, một ni đều mặc áo vàng. Họ đi theo sau sư Mõ Cày vào trong thất quỳ xuống cung kính đảnh lễ. Ngài hỏi là ai và từ đâu đến? Hai vị ấy thưa:
– Bạch tôn sư chúng đệ tử là động chúa Huỳnh Xà thôn, nghe lịnh triệu thỉnh nên về phục mạng.
Hòa Thượng truyền cho đứng dậy thì thấy hai vị ấy thân tướng cũng quang minh, thần sắc sáng sủa, nghiêm chỉnh. Trên trán mỗi người đều có chữ Vạn màu đỏ, trước ngực mang một xâu chuỗi lóng lánh hào quang. Ngài hỏi vì sao hai con lại có được các món pháp bửu này? Hai vị ấy thưa:
– Bạch tôn sư, chữ Vạn này là nhờ nơi quy y Tam Bảo mà có, còn xâu chuỗi này là do công tu tập mà thành.
– Bất cứ người nào ở gần và tu theo tôn sư 3 năm đều cảm hiện ra được cả. Trong hàng quyến thuộc của con hầu hết đều được chuỗi này. Kể từ khi chúng con có 2 món bửu bối này thì mỗi khi đi dạo chơi, đến nơi nào cũng đều được chư thần ở địa phương kính trọng nhường đường và gọi chúng con là Phật Tử.
*
Hòa Thượng gật đầu thuyết pháp cho nghe cùng khuyến nhắc tu hành. Các vị ấy đều lạy tạ ơn và biến mất. Mấy hôm sau “Sư ông Mỏ Cày” ra về và có thưa với cố Hòa Thượng rằng: Lần này là lần cuối cùng gặp nhau. Sang năm (1975) sư sẽ dời về vùng núi Thất Sơn ẩn tu và sẽ tịch vào năm 1980, không còn có dịp gặp lại ngài được nữa.
Một lần khác, quý thầy bên Tu Viện dọn đất trồng lúa, bắp – nên gom các cỏ tranh, chà, rác lại thành một đống lớn để trên gò mối gần đó, đốt bỏ. Hôm ấy cố Hòa Thượng ngó qua, thấy thế ngài mới rầy, bảo là đốt như vậy lỡ chết côn trùng mang tội. Khuya lại, sau khóa lễ ngài chuẩn bị đi ngủ thì nghe có tiếng khóc ở phía trước cửa. Ban đầu ngài tưởng đâu vì mình xớn xác nên nghe lầm. Nhưng khi lắng tai nghe kỹ lại thì rõ ràng là tiếng con nít khóc chớ không sai. Ngài mới mở cửa ra đứng bên ngoài nhìn chung quanh để tìm.
Một chút sau thì ngài thấy ở dưới gốc mít phía trước thất có một đứa nhỏ đang ngồi khóc và có vẻ đau đớn lắm. Ngài lại gần hỏi con là ai, sao ngồi khóc vậy, lại đây thầy biểu coi. Đứa nhỏ là một bé trai khoảng 5, 6 tuổi gương mặt cũng dễ coi, mặc áo màu xanh (chắc là rắn lục).
*
Nó lại gần rồi nói con bị phỏng hết cả lưng, đau rát lắm. Ngài hỏi vì sao mà bị như vậy? Bé đáp: Hồi trưa này con đang nằm ngủ thì bị lửa ở đâu đốt cháy, vì ngủ mê nên không hay. Đến khi nóng quá, giật mình thức dậy thì chạy không kịp nên cả lưng bị phỏng hết.
Ngài nghe vậy thì biết “Bé” này thuộc về giống gì rồi nên thương, dẫn nó vào trong cốc. Lấy chung nước cúng Phật trên bàn thờ xuống trì chú “A Di Đà Cam Lộ Chơn Ngôn” vào nước một hồi rồi rải lưng của nó. Xong ngài mới bảo bé rằng thôi con về đi, không sao đâu mai sẽ lành. “Bé” lạy tạ ơn, ra khỏi cửa rồi biến mất.
Đêm sau ngài thấy có một người đàn bà dắt nó đến cám ơn. Thấy nó hết khóc rồi và cười nói vui vẻ…
Một câu chuyện khác: Phía sân trước thất Bạch Vân có một gò mối lớn bằng 5, 6 chiếc đệm, trên có tre gai mọc, choán cả một khoảng đất rộng.
Đã mấy lần ni sư muốn đốn bỏ, dọn dẹp để trồng bắp, đậu, nhưng hễ ai tới gần gò mối, định đốn cây, phát cỏ thì đều xây xẩm mặt mày và nhức đầu. Riết rồi mấy người Thượng làm mướn sợ quá, đứng ngoài xa chắp tay xá vào gò mối, chớ không dám đến gần. Họ nói chúng tôi không dám đâu, trong đó có thần thánh ở đừng đụng chạm đến mà chết… Mấy năm trôi qua rồi mà gò mối cũng không sao phá được.
Phép Thuật có thật không: Rắn thần canh giữ thuốc quý
Ni sư mới đem chuyện này trình lên cố Hòa Thượng xin giúp đỡ. Lúc ấy cố Hòa Thượng chưa bế quan, nghe vậy nên ngài mới vào xem tự sự.
Sau khi làm phép và chú nguyện, đêm đó ngài nằm mơ, vía thầy đi vào trong thất Phương Liên 2, lại gần chỗ gò mối, chỉ tay vào trong bụi tre, bảo:
– Vị nào trong đó hãy đi chỗ khác ở, để đất trống cho chư ni trồng trọt, sinh sống và tu hành.
Một lát sau thì ngài thấy một con rắn màu đỏ, to bằng cây cột nhà bò ra ngoài ngó ngài một hồi, đoạn gật đầu mấy cái rồi xuống sông đi mất.
Sáng ra ngài nói cho ni sư nghe và bảo rằng gò mối nay đã phá được rồi. Trước sự hiện diện của ngài mấy người Thượng mới dám đến đốn tre và bang bằng gò mối. Bấy giờ mới khám phá ra một việc hi hữu, ấy là trong gò mối này có một bụi “Đơn Quy” lớn rất quý báu, củ to bằng bắp tay, bắp chân. Nhiều đến nỗi đem về phơi cả mấy chiếc đệm mới hết. Ngài nói với ni sư rằng:
– Hèn chi mà không ai phá được cái gò mối này hết. Té ra vì trong đó tàng ẩn vị thuốc quý này nên mới có rắn thần canh giữ. Đây cũng là cái duyên của con, hãy giữ mấy củ đơn quy này mà dùng. Sau này con còn nhờ nó lắm.
Phép thuật có thật
Hư Vân Hòa Thượng là vị Thiền sư có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ 19 – 20. Ngài có vai trò cực lớn đối với Thiền Tông và Phật Giáo Trung Quốc. Là bậc Đại Triệt Đại Ngộ, trí huệ và phép thuật thần thông có đủ. Sự khổ hạnh và trì giới tinh nghiêm của Ngài cảm hóa đến cả hàng dị loại. Là Tổ của Tông Quy Ngưỡng, nhưng ai hỏi thiền, Ngài dạy thiền. Ai hỏi niệm Phật, Ngài dạy họ niệm Phật.
Hồi ký của Ngài là nguồn cảm hứng vô tận cho những ai phát tâm quay về nương tựa nơi chánh pháp để tìm đường lìa xa tam giới, vĩnh viễn thoát khỏi sáu nẻo luân hồi. “Biên niên tự thuật của Hòa Thượng Hư Vân” có ghi lại những điều kỳ đặc:
- Học phép thuật có thật
Phép thuật có thật hay không – Đạo hạnh cảm ứng
Tới Linh Sơn nhất hội phường tức núi Kê Túc. Giữa núi là đất Ô Ca. Tương truyền lúc tôn giả Ca Diếp vào núi, có bảy vị vua đi theo hộ tống, không đành lòng trở về. Họ ở tại đây tu hành thành thần hộ pháp, tức miếu Đại Vương. Tôi đi thẳng lên chánh điện của núi. Trong ngôi chánh điện có thờ tôn tượng tôn giả Ca Diếp.
Tương truyền, khi tôn giả A Nan đến lễ bái thì cửa đá tự nhiên mở. Thánh cảnh trang nghiêm huyền diệu. Thạch đá tự biến thành cửa đá gọi là cửa Hoa Thủ. Ngài Ma Ha Ca Diếp đang nhập định bên trong.Cửa đá lớn tựa như cửa thành, cao cả vài trăm thước, rộng hơn trăm thước. Hai cánh cửa đều đóng nhưng đường lằn giữa hai cửa hiện rõ ràng.
*
Hôm ấy, du khách cùng người địa phương dẫn đường đến rất nhiều. Lúc tôi dâng hương lễ bái, tự nhiên nghe âm thanh của ba tiếng đại hồng chung. Người địa phương đều vui mừng lễ bái theo và nói: “Hễ mỗi lần có bậc dị nhân đến thì đều nghe tiếng chuông trống, mõ khánh vang lên. Chúng tôi đã từng nghe tiếng khánh mõ, mà chưa từng nghe tiếng đại hồng chung. Nay Sư Phụ đến đây lễ bái lại nghe tiếng đại hồng chung, chắc đạo hạnh của Ngài cao lắm.”
Từ núi Lương Vương tới phủ Sở Hùng, tôi trú tại chùa Cao Đỉnh. Lúc vừa mới đến chùa, nghe mùi hương hoa lan bay khắp cả. Vị tăng tri sự chúc mừng: “Thượng Tọa đến, vị thần hoa lan phóng ra hương thơm, thật là kỳ diệu. Trong gia phả của phủ viết rằng có vị thần hoa lan, vô hình dạng, nếu có cao tăng chân nhân đến thì phóng tỏa hương thơm. Nay mùi hương hoa lan bay đầy khắp núi, chắc là do âm đức của Thượng Tọa cảm nên vậy.”
Phép thuật có thật hay không – Quy y cho Gà
Trong khi nhập thất. Có một vị tăng từ chùa Ngưỡng Dương đến, nói rằng chùa có phóng sanh một con gà trống nặng vài cân. Gà nầy rất dữ tợn. Những con gà khác đều bị nó đá có thương tích. Tôi liền thuyết giới và dạy nó niệm Phật.
Chẳng bao lâu, nó không còn cắn đá những con gà khác và ăn bọ trùng nữa. Một mình nó bay lên cây cao, chỉ ăn thực phẩm khi được cho. Lâu sau, những khi nghe tiếng chuông khánh thì nó liền đi theo sau đại chúng lên chánh điện tụng kinh. Khi được dạy niệm Phật, nói liền gáy tiếng như: “Phật, Phật, Phật…”
Hai năm sau, ngày nọ, khi làm lễ công phu chiều xong, nó ngưỡng cổ lên, xòe đôi cánh và vỗ ba lần giống như niệm Phật, rồi đứng thẳng mà chết. Trải qua vài ngày mà thân sắc của nó vẫn không biến đổi. Sau đó, chư tăng để nó vào một thùng kín và hỏa táng.
Phép thuật có thật hay không – Vân di thạch
Mùa xuân, chư hộ pháp cùng hòa thượng Khế Mẫn đến khẩn thỉnh tôi ra thất để đến chùa Quy Hóa giảng kinh Viên Giác và kinh Bốn Mươi Hai Chương. Người quy y Tam Bảo tại chùa hơn cả ba ngàn người. Mùa thu, thượng nhân Mộng Phật thỉnh tôi đến chùa Cung Trúc giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Tại chùa, tôi hướng dẫn khắc bản gỗ kinh Thủ Lăng Nghiêm cùng các bài thi kệ của đại sư Hàn Sơn. Những bản gỗ khắc nầy được tồn trử tại chùa. Tôi cũng được cung thỉnh truyền giới.
Phật sự xong, đề đốc Trương Tùng Lâm, tướng Lý Phúc Hưng cùng quan thân sĩ thứ cung thỉnh tôi đến phủ Đại Lý giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Sùng Thánh, Tam Tháp. Người quy y Tam Bảo cả vài ngàn người. Đề đốc Lý Phúc Hưng muốn giữ tôi lại. Tôi đáp: “Tôi không thích trú tại thành phố. Xưa kia, muốn kết am tại núi Kê Túc nhưng con cháu các chùa trên núi không cho. Nay chư vị là hộ pháp, vậy hãy cho tôi một khoảnh đất.
Tôi nguyện cất am tiếp chúng, cùng cứu vãn tăng chúng toàn trấn. Khôi phục đạo tràng của tổ Ca Diếp. Đó là sở nguyện của lão tăng này vậy.” Chư vị hộ pháp đều trả lời là được. Họ lại bảo quan Tri Huyện huyện Tân Châu trợ giúp. Trên núi, tôi tìm được một am thất hư tàn, tên là Bồn Vu, để tạm trú. Trong am không có phòng xá, không lương thực, nhưng tôi vẫn tiếp lễ bốn chúng từ mười phương đến.
*
Am Bồn Vu được lập từ đời Gia Khánh, nhà Thanh (1796-1820). Vốn không có tăng trụ trì vì bên ngoài cửa chùa có một tảng đá, Bạch Hổ. Tôi muốn xây hồ phóng sanh nơi đây, nên thuê người dời tảng đá đó. Đào đất chung quanh tảng đá, nhưng không thấy chân đá. Tảng đá cao chín thước bốn tấc, rộng bảy thước sáu tấc. Đỉnh đá bằng phẳng, có thể ngồi thiền trên đó. Thuê hơn một trăm công nhân để dời tảng đá đó ra xa hai trăm tám mươi thước. Công nhân gắng sức cả ba ngày mà tảng đá vẫn không động đậy.
Sau khi tất cả công nhân bó tay bỏ về, tôi tụng đọc kinh chú, cầu nguyện chư thần hộ pháp Già Lam Thánh chúng gia hộ. Rồi hướng dẫn hơn mười vị tăng, di chuyển được tảng đá đó qua bên phải cửa chùa. Người đến xem phải kinh ngạc, biết là nhờ thần lực của chư thần hộ pháp gia hộ. Nhân việc lành này, có người đề khắc lên tảng đá: “Vân Di Thạch”. Tức là tảng đá được di chuyển bởi lão tăng Hư Vân. Quan thân sĩ thứ cũng đề thơ lên tảng đá đó rất nhiều.
Phép thuật có thật hay không – Bò xin Quy Y
Lúc tôi đi ngang qua Đằng Xung, ghé lại chùa Vạn Thọ. Đang cùng ngồi đàm đạo với đề đốc Trương Tùng Lâm, bỗng đâu một con bò vàng chạy đến, quỳ xuống, hai mắt rơi lệ. Chạy theo sau là chủ của nó, tên Dương Thắng Xương, cùng nhiều người khác. Được biết ông Dương Thắng Xương, là người chuyên giết bò. Tôi quay về hướng con bò đó và nói: “Nếu con muốn chạy trốn để sống thì phải quy y Tam Bảo!”
Bò liền gật đầu. Tôi thuyết Tam Quy Y, rồi đỡ nó đứng dậy. Bò thuần thục nghe theo như người vậy. Tôi lấy tiền ra đưa cho chủ bò, nhưng ông ta không nhận. Cảm động việc kỳ lạ này, ông chủ bò thề nguyền rằng sẽ đổi nghề khác, và thỉnh cầu quy y cùng ăn chay trường. Đề đốc Trương Tùng Lâm cảm kích việc này nên nhận ông chủ bò làm việc tại một khách sạn.
Phép thuật có thật hay không – Dạy Két niệm Phật
Sau khi trở về Vân Nam, tôi liền thành lập chi hội Phật giáo. Tại cung Vũ Xương, khai mở đại hội Phật giáo. Tôi thỉnh thầy Liễu Trần thiết lập chi hội Phật giáo tại Quý Châu. Vị Phật sống, lạt ma Tây Tạng từ vùng đất xa xôi cùng đến với rất đông vị lạt ma khác. Chúng tôi bàn thảo việc mở trường học Phật giáo, xây nhà thương. Lập các hội từ thiện, tổ chức đoàn truyền giáo. Trong năm đó có một việc nhỏ đáng ghi.
Số là có người nông dân, đem một con két biết nói đến phóng sanh. Lúc đầu nó còn ăn thịt. Nhưng sau khi được quy y, dạy niệm Phật rồi thì không còn thích ăn thịt nữa. Nó rất thuần thiện, tự biết ra vào. Mỗi ngày thường niệm Phật và thánh hiệu Bồ Tát Quán Thế Ấm không ngừng nghỉ.
Ngày nọ, nó bị một con diều hâu bắt cắp đi. Lúc bay trên không trung, chỉ nghe tiếng Phật thôi. Tuy chỉ là loài vật, đến lúc báo thân sắp hết, chết sống kề cận, mà không xả bỏ niệm Phật. Chẳng lẽ con người lại không bằng được như con két này sao?
Phép thuật có thật hay không – Độ Quỷ
Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tại huyện Đặng Châu, thân sĩ họ Đinh, là bậc học giả triều Thanh. Ông có con gái tuổi khoảng mười tám, chưa lập gia đình. Ngày nọ, cô đột nhiên té xuống, bất tỉnh nhân sự. Toàn thể gia đình kinh hoàng sợ hãi, không biết phải làm gì.
Lát sau, cô tỉnh dậy, nói giọng đàn ông, chỉ thẳng và mắng cha: “Này tên họ Đinh! Mi cậy thế, vu oan cho ta là tướng cướp. Mi phải chịu trách nhiệm về cái chết của ta. Ta là người Tây Xuyên, phủ Đại Lý, họ Đổng. Ngươi có nhớ ra không? Hôm nay, ta cáo bạch trước điện Diêm Vương, trả mối thù tám năm về trước!”
Nói xong, cô ta lấy dao rượt họ Đinh. Họ Đinh sợ hãi, chạy trốn nơi khác, không dám về nhà. Mỗi ngày, quỷ đến một lần. Khi đến, liền nhập vào thân cô con gái, khiến điệu bộ cô trở nên rất hung hăng. Mọi người trong nhà đều lo buồn, lại làm liên lụy đến cả hàng xóm. Khổ thật!
Bấy giờ, trên núi Kê Túc có hai vị tăng là Biểu Cầm và Tố Chân đến huyện Đặng Châu, đi ngang qua nhà họ Đinh. Lúc ấy, quần chúng bu quanh nhà rất đông. Vì quỷ lại nhập vào thân cô gái và đang hiện tướng trạng hung dữ. Hai vị tăng này nói với quỷ: “Ngươi chớ nên làm dạng mạo như thế, khiến dân địa phương không được an ổn!”
*
Quỷ đáp: “Các thầy là người tu hành chớ có lắm chuyện!”
Tăng nói: “Vâng, dĩ nhiên là không phải chuyện của chúng tôi. Nhưng vì thầy chúng tôi thường dạy rằng oan gia nên xả bỏ, chẳng nên kết thêm. Càng kết thì càng thâm sâu. Lúc nào mới giải quyết cho xong được?”
Quỷ ngừng chốc lát rồi nói: “Thầy của chư vị là ai?”
Tăng đáp: “Thầy chúng tôi là lão hòa thượng Hư Vân, trụ trì chùa Chúc Thánh.”
Quỷ nói: “Tôi cũng có nghe đến danh Ngài, nhưng chưa từng gặp mặt. Ngài có thể truyền giới cho tôi được không?”
Tăng đáp: “Đại từ đại bi, cứu độ tất cả khổ não! Sao Thầy chúng tôi không truyền giới cho ngươi được?”
Tăng lại khuyên quỷ nên bảo họ Đinh xuất tiền ra làm lễ siêu độ.
Quỷ nói: “Hắn giết người hại mạng. Tôi không muốn dùng tiền của hắn!”
Tăng đáp: “Như vậy, nếu người địa phương gom góp tiền lại, cầu siêu cho ngươi, để họ được sống an ổn. Vậy được không?”
Quỷ nói: “Thù này nếu không báo, tôi hận mãi không nguôi. Oán ân tương báo, làm sao giải hết? Để tôi xuống hỏi lại Diêm Vương coi. Ngày mai, chư vị hãy đến đây đợi tôi!”
*
Quỷ xuất ra. Cô gái liền tỉnh dậy, nhìn thấy mọi người bao vây xung quanh, mắc cở, bỏ chạy vào nhà. Hôm sau, quỷ đến sớm hơn hai vị tăng, nên trách móc rằng sao không giữ lời hứa đến đúng giờ. Tăng bảo rằng vì có công việc nên mới đến trể.
Quỷ nói: “Tôi đã hỏi qua Diêm Vương. Ngài trả lời rằng chùa Chúc Thánh là đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh, nên cho phép đi. Nhưng chư vị phải đưa tôi đến đó.”
Hơn cả chục thân sĩ và dân chúng vùng địa phương cùng hai vị tăng đi đến chùa. Chiều đến, chúng tôi bàn việc giải quyết vấn đề. Hôm sau, chùa thiết đàn tụng kinh thuyết giới. Kể từ đó, gia đình họ Đinh được bình yên trở lại. Dân chúng, sĩ thứ huyện Đằng Châu thường cùng nhau đến chùa lễ bái.
Phép thuật có thật hay không – Long Vương xin Quy Y
Mùa xuân năm ấy, trong kỳ truyền giới tại Cổ Sơn. Đột nhiên có một ông lão, tóc trắng như tuyết, dung mạo thanh cao, kỳ dị. Ông đi thẳng vào thất phương trượng, quỳ xuống cầu giới. Tôi hỏi ông tên gì. Ông đáp rằng họ Dương, người Mân Nam, Đài Kiều. Có một vị mới vừa thọ giới tên Diệu Tông. Ông ta cũng là người Đài Kiều, nói rằng chưa từng gặp qua ông lão đó.
Sau khi truyền giới Bồ Tát, lúc cấp giới điệp xong, thì không thấy tông tích ông lão đâu cả. Lúc Diệu Tông trở về Đài Kiều, đến am Long Vương, thấy một bức tượng ngồi nghiễm nhiên. Hình giống như ông lão, lại thấy giới điệp trong tay của tượng thần. Nam Đài chấn động, truyền nhau rằng Long Vương cầu thọ giới.
Phép thuật có thật hay không – Hổ dữ xin Quy Y
Khi xưa, tướng quân Lý Hán Hồn lúc đóng quân tại vùng phía bắc tỉnh Quảng Đông. Tận mắt thấy chùa Nam Hoa bị hư hoại nặng nề, nên tự sửa sang đôi chút. Mùa đông, tại chùa Nam Hoa, chư hộ pháp cố thỉnh tôi truyền giới. Vì phòng ốc, điện đường bị hư hoại, sụp đổ. Nên chúng tôi tạm cất những mái chòi tre để cho cả trăm tăng chúng cư ngụ. Quan thân sĩ thứ vùng Quảng Châu và Triều Châu cùng quyến thuộc đến thọ giới quy y. Mười bảy tháng chạp, kết đàn tràng tại chánh điện.
Tối đến, đang khi truyền giới Bồ Tát, có một con hổ đến, như thể muốn thọ giới quy y. Việc này khiến toàn thể đại chúng đều hoảng sợ. Tôi truyền tam quy y và thuyết giới cho hổ. Nó có vẻ như hiểu biết mà thọ nhận, rất thuần thục. Thọ giới xong, nó liền bỏ đi.
Phụ chú:
Mùa đông năm Dân Quốc thứ hai mươi ba, kiến lập đạo tràng xong. Tối nọ, khi bốn chúng cùng quan dân sĩ thứ đồng tụ hội tại chánh điện. Giang Khổng Ấn, lúc đang đứng trên lầu các, phát hiện ra trước cửa chùa Nam Hoa có hai luồng ánh sáng chói lòa. Đến gần, thấy rõ đó là hổ, nên ông ta liền la lên.
Quân lính cầm súng định bắn thì kịp lúc Vân Công bước ra cản lại. Hổ liền quỳ xuống. Vân Công thuyết tam quy y. Rồi dạy nó rằng hãy nên ẩn trong núi thẩm rừng sâu, chớ có ra ngoài hại người. Hổ cúi đầu ba lần rồi đứng dậy, đi trở vào rừng, nhưng với điệu dạng rất quyến luyến. Kể từ đó, mỗi năm hổ đều xuất hiện một hai lần. Vài lúc, núi rừng tuyệt không dấu tích các loài cầm thú khác vì nghe tiếng rống của hổ. Vân Công đôi khi đi ra gặp nó, vỗ về an ủi lời lành thiện. Việc hổ già quy y Tam Bảo thật rất kỳ lạ.
Phép thuật có thật hay không – Thọ Thần xin Quy y
Trong kỳ truyền giới, có thọ thần đến cầu thọ giới, rất là kỳ lạ. Giám viện Quán Bổn có ghi lại như sau:
“Vào lúc truyền giới, chợt có một hành giả đến, cầu thọ giới tỳ kheo. Khi được hỏi danh tánh là gì, người ở đâu, bao nhiêu tuổi… thì trả lời rằng Thầy vốn họ Trương, người Triết Giang, ba mươi bốn tuổi. Không có thầy thế độ, cũng không có ba y ca sa và một bình bát.
Vì lòng chân thành, nên Thầy được thọ giới xuất gia, pháp danh là Thường Nhục. Trước khi được thọ giới, Thầy làm rất nhiều công việc nặng nhọc trong chùa như quét dọn lau chùi trong ngoài tự viện. Tính tình trầm mặc, không nói chuyện chi với ai. Khi được cho lên đàn thọ giới thì nhất nhất đều theo giới luật.
Đến khi tam đàn đại giới sắp kết thúc, tức sau đàn truyền giới Bồ Tát, thì không ai tìm thấy Thầy đâu hết. Y ca sa, giới cụ vẫn còn để lại giới đường. Việc này, từ từ mọi người cũng quên hẳn. Trước kỳ truyền giới năm sau, Vân Công mộng thấy vị thầy kia đến xin lại giới điệp.
Hỏi rằng Thầy đi đâu sau khi lễ truyền giới chấm dứt thì trả lời rằng: Thầy ở chung với thần đất nơi đó chứ không đi đâu hết. Tỉnh dậy, Vân Công biết đó là thọ thần khi trước đến cầu thọ giới. Ngài bảo tăng chúng đem giới điệp đó đến dưới gốc cây cổ thụ bên cạnh chùa, nơi miếu thổ địa, mà đốt để trả lại cho thọ thần.”
Phép thuật có thật hay không
Hòa thượng Tuyên Hóa(1918 – 1995) là Hóa thân của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát! Cuộc đời và đạo hạnh của Ngài, có lẽ, không từ ngữ nào trên thế gian này có thể ca tụng hết được. Trong phạm vi bài viết này, xin trích dẫn một đôi câu chuyện về dùng Phép thuật để độ sanh của Ngài. Nguyện những ai có nhân duyên đọc được, xin hãy tìm đọc cuốn sách ” Cuộc đời và Đạo nghiệp của Hòa thượng Tuyên Hóa”, lợi lạc vô cùng!
Phép thuật có thật hay không – Độ Hồ ly
Tại thôn Tương Lam Kỳ, Tứ Đồn, một hôm có hơn 800 Hồ Ly trắng dùng phép thuật biến thành người đến quy y tôi. Chúng nó chân thật tu hành. Chuyên làm việc lợi ích cho người và trị bịnh cho người mà không lấy tiền.
Hơn 800 con Hồ Ly này cũng nhập vào thân người rồi dùng phép thuật trị bịnh cho người ta. Chúng trị bịnh không lấy tiền, chuyên dốc sức làm nghĩa vụ thiện. Cho nên có rất nhiều người tin tưởng chúng. Người trong thôn thường đốt nhang lễ lạy, và mua đồ cho chúng, nhưng chúng không muốn. Thông thường thì hồ ly thích ăn thịt gà, nếu các vị cúng cho nó một con gà thì nó vui mừng khấp khởi. Nhưng chúng hồ ly này cũng không muốn gà, không ăn thú vật sống mà chúng đều ăn chay.
Sau đó Hồ Ly cũng nói chuyện với người ta, rằng: “Tôi chỉ gặp các vị ba năm thôi, vì ba năm sau, tôi sẽ đi theo Sư Phụ tu hành.” Người ta hỏi: “Ai là Sư Phụ của ông?” Y đáp: “Tới lúc đó, các người sẽ biết, bây giờ tôi không thể nói được.”
*
Ba năm sau, khi tôi đi ngang qua nơi đó, Hồ Tiên đến cầu xin quy y. Sau khi nói chuyện với chúng xong, ngay hôm đó tôi cho quy y hơn 830 con hồ ly cùng một lúc. Sau đó phái chúng nó tới núi Lạp Pháp ở huyện Giao Hà tu hành. Núi Lạp Pháp còn gọi là tảng đá lớn Lạp Pháp vì ở đó có rất nhiều thạch động. Từ đó về sau, ở đó không còn Hồ Tiên trị bịnh cho người ta nữa. Dân địa phương đều không thích tôi, họ nói vì tôi đã đem Thầy thuốc của họ đi mất.
Lúc mẹ tôi bị bịnh, ở thôn Bối Ấm Hà có một Hồ Tiên rất hiển linh, nhiều phép thuật lạ. Nó thường ban bố thuốc men cho người. Tôi đã từng vì mẹ mà đi tới đó cầu xin thuốc, nhưng quỳ ba ngày ba đêm cũng không cầu được thuốc. Đợi sau khi tôi xuất gia, Hồ Tiên này nhập vào người bà con của tôi, cũng muốn quy y tôi. Tôi hỏi y là ai? Y đáp y là Hồ Tiên ở Bối Ấm Hà chuyên bố thí thuốc men cho người ta.
Tôi bèn tính sổ nợ với y, nói: “Lúc ngươi bố thí thuốc, tôi tới xin thuốc, tại sao ngươi không cho tôi thuốc, giờ đây lại còn muốn quy y tôi nữa hả?” Hồ Tiên nói: “Lúc Thầy quỳ ở đó, có một luồng ánh sáng màu vàng chói khiến con mở mắt không ra, nên không cách nào cho thuốc được!” Tôi đặt tên cho y là Pháp Thiên Pháp Đại. Đây là lần thứ hai có Hồ Tiên (hồ ly) quy y tôi.
Phép thuật có thật hay không – Độ Hoàng Tiên
Bắc phương có Hồ (cáo), Hoàng Nhị Tiên, Hồ Tiên tức là Hồ Ly. Hoàng Tiên tức là Hoàng Thử Lang (chuột), người ta thường gọi là Hoàng Bì Tử. Ở Bắc phương người ta đều gọi hai loại động vật này là thần, vì chúng nó rất tiểu nhân nhỏ mọn. Nếu quý vị lỡ nói sai một câu, là chúng nó dùng phép thuật khiến cho các vị sanh bịnh.
Lần đầu tôi gặp một con chuột Hoàng Bì Tử này, nó khiến cho một người sanh bịnh tà rồi tới đấu phép thuật với tôi. Tôi dùng ấn “Quyến Sách Thủ” để bắt nó. Nó đấu không lại, bèn nhập vào người bịnh, quỳ xuống lạy lục, tha thiết cầu khẩn nói: “Con muốn quy y Thầy, xin Thầy thả con đi!” Nói nghe rất là tội nghiệp, tôi nói: “Vậy, ngươi quy y được rồi!” Và thả nó đi.
Ban đầu tôi có nói là khi trở về chùa tôi sẽ truyền quy y cho nó. Nhưng khi tôi trở về chùa rồi thì sao? Bởi vì nó thích nói dối nên nó gạt tôi, chớ nó không có tới chùa. Lúc tôi ở ngay chỗ của bịnh nhân, bịnh nhân đó không sao. Đợi tôi đi rồi, bịnh tình của bịnh nhân lại tái phát. Sau đó tôi quay trở lại bắt nó.
*
Tôi bắt nó tổng cộng có đến ba, bốn lần. Cuối cùng tôi nói: “Ngươi mà nói dối thêm một lần nữa, ta sẽ không khách sáo với ngươi đâu! Lần này ngươi nhất định phải cải tà quy chánh!” Có như vậy nó mới không nói dối. Cho nên muốn độ một chúng sanh thật không dễ chút nào. Các vị thấy tôi độ con Hoàng Bì Tử này đây. Nó đã gạt tôi năm lần bảy lượt nhưng tôi cũng không hề ghét bỏ nó.
Cuối cùng vẫn truyền quy y cho nó và đặt tên cho nó là Quả Vãng. Đó là lần đầu tôi thâu Hoàng Tiên quy y. Có lẽ các vị chưa hề nghe về các sự việc này, nên cũng không mấy tin. Nhưng là kinh nghiệm chính tôi đã trải qua.
Phép thuật có thật hay không – Bách tử độc xà
Sau khi tôi dẫn Quả Năng đến chùa Nam Hoa, chẳng biết nhân duyên gì, chú ta tới chùa Nam Hoa thì bị ma nhập. Vì bị ma nhập nên chú không còn sợ cây phất trần nữa. Ma này gọi là “bách tử độc xà” tức trăm con rắn độc, tinh xà vì mỗi lần sanh là nó sanh ra 100 con. Nó thường dùng phép thuật tác quái ở Nam Hoa Tự. Mỗi lần có giới đàn là nó tới nhiễu loạn, khiến một giới tử trong số các Sa Di, Sa Di Ni đến thọ giới phát bịnh thần kinh. Hư Lão(Hư Vân Hòa Thượng) cũng bó tay.
Người phát bịnh đó nói mình đã thành Phật, là Phật gì gì, rồi không mặc quần áo đi khắp nơi nói xằng nói bậy nhiễu loạn giới đàn. Hư Lão đã truyền giới đàn ở Nam Hoa Tự nhiều năm qua và mỗi năm đều có sự việc này phát sanh. Lúc tôi ở Nam Hoa Tự, Tinh Xà đã nhập vào chú đại đệ tử của tôi, nó muốn mượn thân của chú để đấu pháp với tôi.
Một khi Quả Năng phát cuồng lên thì dù có sức lực của mười mấy người hợp lại cũng không bằng sức mạnh của chú ta. Trên thân chú còn bốc mùi thối, ai nghe phải mùi đó cũng muốn ói mửa. Từ sáng đến tối, chú cứ nói: “Pháp của Sư Phụ tôi là giả, Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn đều là giả hết.”
*
Loại ma này khiến cho chú nói bậy bạ như vậy cốt để phá hủy chánh pháp. Lúc đó tôi dùng bất cứ pháp gì đối trị, ma đều không sợ. Nó nhập vào thân Quả Năng nói: “Cái đó của ngươi là giả thôi!” Bọn tà thần ác quỷ tới mượn tà khí ngỡ rằng, nếu nói vậy, tôi sẽ kinh sợ. Nhưng tôi đã không sợ chúng, nếu như trong tâm không có định lực, nghe chúng nói pháp tôi là giả liền khởi lòng nghi ngờ tức tiêu đời rồi!
Lúc tôi ở chùa Nam Hoa làm Đường Chủ, Ban Thủ, mỗi ngày tôi đến thăm nhà khách vài lần. Tôi xem coi có bậc Cao Nhân, Đại Đức nào tới Nam Hoa Tự không, vì tôi không muốn bỏ qua cơ hội. Đúng ngay lúc đó, có vị Pháp sư Minh Tướng đã 80 mấy tuổi đến tá túc. Vừa thấy Trưởng Lão tôi cảm thấy rất có duyên với Ngài.
Ngài cũng ngủ ngồi, xuất gia lúc 8 tuổi, âm thầm tu khổ hạnh, Ngài đã tu pháp “Bát chu thất” cả 8 lần. Mỗi một kỳ “Bát chu thất” là 96 ngày. Trong 96 ngày này, hành giả hoặc niệm Phật, hoặc trì chú, hoặc tu gì đi nữa, nói chung là trong 96 ngày đó không ngủ, không ngồi, nên còn được gọi là “Phật lập tam muội.” Ngài tu hành rất có công phu, một khi nhập định có thể làm được một vài “công việc.”
*
Lúc đó không biết Trưởng Lão này ăn nhằm thức gì, mỗi ngày đi tiêu chảy ra quần nhơ nhuốc. Tôi giặt quần cho Ngài luôn mấy ngày liền, thì mới hết bịnh. Vì chú đệ tử phát thần kinh của tôi, tôi bèn cầu cứu Trưởng Lão. Với định lực của Ngài và tôi, trải qua hơn nửa tháng đấu phép thuật chúng tôi mới hàng phục được tên Tinh Xà này, nhưng từ đó trở đi không biết Quả Năng đã đi đâu.
Dù sao đi nữa “Bách tử độc xà” rất có bản lãnh, qua 500 năm sau, nó lại xuất hiện. Tới lúc đó sẽ có người khác hàng phục nó. Cũng có người nói: “Sao Thầy không tiêu diệt nó luôn cho rồi?” Nếu như tiêu diệt nó tức không có tâm từ bi, tôi đây chỉ muốn cảm hóa nó mà thôi!
Học Phép thuật có thật
Có một chú bé 14 tuổi, chú rất tin tưởng tôi và rất muốn học phép thuật, nên làm thị giả cho tôi. Chú đi theo tôi cũng được hơn 100 ngày. Tôi nói: “Chú muốn học phép thuật, trước tiên phải chịu “khổ thông”; khi thọ hết khổ rồi mới có thể được thần thông, nếu chú chịu khổ không nổi thì sẽ không học được phép thuật!”.
Rồi tôi cho chú chịu mọi thứ khổ, điều nhẫn không được cũng phải nhẫn, việc nhường không được cũng phải nhường, thức ăn không được cũng phải ăn, cái chịu không nổi cũng phải chịu.
Mỗi ngày tôi cho chú ta nếm đủ mùi vị khổ. Có một lần, chúng tôi ở trong nhà một vị cư sĩ nọ và hễ đến bất cứ nơi nào, chúng tôi đều ngồi thiền hai giờ đồng hồ trước khi đi ngủ. Bữa đó, chắc có lẽ quá mệt, nên chú ta ngồi được một giờ là nằm dài ra ngủ. Tôi đi tới lấy gối nằm của chú liệng xuống đất. Chú biết là tôi không cho phép chú nằm, nên chú ta mau thức dậy ngồi thiền tiếp. Và chú ngồi đến khi nào tôi nghỉ thì chú mới được nghỉ, đó là lần thứ nhất.
*
Còn có một lần trời mưa, chúng tôi đang trên đường đi, thấy có một cái bánh ở dưới đất. Bánh này dày như bánh mì, bị ngâm dưới nước mưa. Chú nói với tôi: “Sư Phụ, ở dưới đất có cái bánh kìa!” Tôi nói: “Chú lượm lên ăn đi!” Chú ta cười cười thôi chớ không có nhặt cái bánh đó lên.
Đợi đi thêm một dặm đường nữa, tôi nói với chú: “Mỗi ngày chú đều muốn cầu được học phép thuật có thật, hôm nay nếu chú ăn cái bánh kia, chắc chú đã được toại nguyện rồi! Nhưng tiếc quá, lúc đó chú đã không ăn nó!” Chú nói: “Vậy để con trở về đó ăn.” Tôi nói: “Đã nói toẹt ra rồi, không còn linh nghiệm nữa. Bây giờ chú có ăn đi nữa cũng không có tác dụng gì!”
Chú nghe xong bèn khóc òa. Tôi nói: “Từ từ đã, sau này chú vẫn còn có cơ hội mà!” Qua năm tháng sau, chú ta hốt nhiên bừng tỉnh, cái gì cũng biết hết. Trừ lậu tận thông ra, chú ta được thiên nhãn thông, túc mạng thông, thiên nhĩ thông, có được năm thần thông( Đại phép thuật). Người nào trong tâm nghĩ gì, chú ta đều biết, rất là lợi hại!
Tại sao chú ta mau có thần thông như vậy? Vì chú ta là đồng tử, cho nên tu hành rất mau tiến bộ; nhưng cũng không phải là việc dễ dàng đâu.( Bạn thấy không: Học phép thuật có thật hoàn toàn, không hư dối, nhưng nó khó như thế đó)
*
Ở Đông Bắc, tôi đào tạo được sáu chú như vậy. Bây giờ tôi đến đây (Mỹ) nên không biết các chú hiện ra sao? Lúc bấy giờ, các chú và tôi đi khắp nơi hóa độ người, các chú giúp tôi rất nhiều. Tôi nay ở đây nếu lại có sáu người như vậy tới phụ giúp tôi, thì không cần bảo người ta tin Phật, tự nhiên người ta cũng tin! Tôi ở Đông Bắc còn có một đệ tử, chú này khoảng 14 tuổi. Tuy rằng là đệ tử nhỏ, nhưng phép thuật của chú không nhỏ chút nào. Chú có thể lên đến trời và chui xuống đất.
Chú có được ngũ nhãn nhưng không được lậu tận thông. Nếu được lậu tận thông là chứng đắc quả vị A La Hán rồi. Một ngày nọ, chú ta chạy lên trời chơi. Thiên ma trên đó rất thích chú, bèn nhốt chú vào trong cung điện của ma vương, là một cung điện sáng bóng trong suốt giống như xây bằng lưu ly, vô cùng mỹ lệ.
Vì chú có ngũ nhãn, nên thấy được pháp thân mình đến chỗ đó nhưng không ra được. Chú bèn nói với tôi: “Sư Phụ, con lên trời, bây giờ không trở về được!” Tôi nói: “Ai bảo chú đi vậy?” Chú ta nói: “Con tưởng ở trên đó vui lắm nên mới đến xem thử, ai ngờ mấy người trên đó không cho con về.” “Chú nghĩ chơi vui thì được, nhưng chú không được lên đó chơi! Đó là thiên ma ở trời lục dục thiên, chuyên môn phá hoại định lực của người tu hành đấy!”
*
Nghe tôi nói vậy chú ta càng hoảng hốt, nói: “Ma vương nhốt con lại rồi, không cho con trở về, vậy phải làm sao đây?” Tôi nói: “Chú đừng sợ! Ta nay dạy cho chú cách trở về.” Tôi dùng chú Ngũ Đại Tâm trong chú Lăng Nghiêm khiến cung điện của ma vương tan biến mất. Do đó chú ta mới được thoát thân trở về.
Thật là đã xảy ra chuyện như vậy. Mỗi ngày tôi thường cùng với 20 mấy đệ tử quy y của tôi niệm chú Đại Bi. Mỗi lần niệm là chúng tôi quỳ niệm đến hai giờ đồng hồ. Trong nhà vốn không có bông hoa, nhưng khi chúng tôi trì chú Đại Bi khoảng hơn 200 biến là nghe có mùi hương thơm ngát khắp nhà.
Loại hương này tuyệt không có ở nhân gian, từ xưa đến nay chúng tôi chưa bao giờ ngửi được mùi hương như vậy. Tôi có một chú đệ tử vừa trì chú Đại Bi vừa hít ngửi mùi hương thơm, càng thơm chừng nào, chú ta càng hít dữ chừng nấy: A! Thơm quá! – A! Thiệt là thơm quá!
*
Tôi nói: “Chú làm cái gì vậy hả?” “Thơm quá đi thôi!” Tôi nói: “Chú hãy chuyên tâm trì chú Đại Bi đi, chớ có chạy theo mùi hương như vậy.” Về sau các đệ tử của tôi đều được một số cảm ứng, cũng đều khai mở trí huệ hiểu biết các pháp và tâm lượng cũng lớn rộng.
Sau đó, tôi muốn đem các chú trẻ này tới đây, nhưng rất tiếc là các chú không thể đi xa nhà. Sau này các chú đều bị mất trí huệ đã có được cũng như tất cả các phép thuật thần thông diệu dụng khác. Hiện tại các chú cũng giống như những người bình thường khác mà thôi.
(Phép thuật có thật hay không)
Tuệ Tâm 2020.