Phật Học Phổ Thông – HT. Thích Thiện Hoa
Pháp Giới 12 tháng trước

Phật Học Phổ Thông – HT. Thích Thiện Hoa

Phật Học Phổ Thông của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa là cuốn sách đặc biệt dành riêng cho hàng Phật tử sơ cơ và những người đang tìm hiểu về giáo Pháp của đức Phật. Sở dĩ gọi là đặc biệt bởi trong cuốn sách này Hòa Thượng đã khéo léo giảng giải những khái niệm căn bản nhất của Phật pháp một cách đơn giản và dễ hiểu, ai cũng đọc được, ai cũng hiểu được. Trong giáo lý của đức Phật, để làm được điều này không phải chuyện đơn giản. Bởi Phật pháp mênh mông, ý tứ sâu thăm thẳm, càng vào sâu càng không thấy đáy vậy!

Ta đọc sách này sẽ nắm vững được nền tảng giáo lý của đạo Phật. Lánh xa được hết thảy những điều mê tín dị đoan và lầm lạc của thế gian. Ta sẽ biết được mình sinh ra để làm gì, mục đích của cuộc sống là gì….Từ đó mà lựa chọn cho mình một pháp tu rồi tinh tấn dụng công để liễu thoát khỏi sanh tử luân hồi, báo đáp lòng mong mỏi của Phật và Chư Tổ!

  • Mười điều quan trọng Phật tử tại gia cần biết.
  • Học Phật pháp bắt đầu từ đâu.
  • Cách ngồi kiết già.
  • Cách niệm Phật tại nhà. 
  • Các cảnh giới trên bước đường học Phật.
  • Cách giúp đỡ những người bị ma nhập.
  • Cách phòng chống tẩu hỏa nhập ma khi Thiền định.
Phật Học Phổ Thông – HT. Thích Thiện Hoa
Phật học Phổ Thông Thích Thiện Hoa

Phật Học Phổ Thông – Hòa Thượng Thích Thiện Hoa

Lời nói đầu

Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói “Ðạo Phật là đạo của ông bà”, hay “Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả…”. Kể về số lượng thì tín đồ Phật Giáo ở Việt Nam thật là đông đảo; nhưng xét về phần phẩm, thì chúng ta chưa có thể lạc quan được. Tình trạng phẩm ít, lượng nhiều ấy phát sinh vì nhiều nguyên nhân phức tạp:

  • Có người theo đạo Phật vì truyền thống của ông cha (ông cha theo Ðạo Phật, nên con cháu cũng theo).
  • Có người theo đạo Phật vì cảm tình đối với thân bằng quyến thuộc, hay đối với cái Ðạo đã chia sẽ những phút vui buồn, thịnh suy của đất nước.
  • Có người theo đạo Phật, vì mong cầu được tai qua nạn khỏi, hay cầu của, cầu con v.v… 

Ngày nay, vẫn biết có một số đông tín đồ đã hiểu đúng giá trị cao siêu và lợi ích rộng lớn của Ðạo Phật; nhưng cái số ấy không phải là đa số, nếu đem so với cái khối tín đồ hiểu Ðạo một cách nông cạn, hay sai lạc nói trên. Vì không hiểu một cách thấu đáo Ðạo Phật, nên lòng tin không được chắc chắn. Mỗi khi gặp một lý thuyết nào lạ, một tôn giáo nào mới, thì họ ùa hòa tin theo; như cây thiếu rễ cái, gió thổi phía nào thì ngã rạp theo phía ấy, thật đáng buồn thương.

*

Tình trạng buồn thương ấy có thể bổ cứu được, nếu chúng ta có một chương trình dạy Phật Pháp bằng chữ Việt. Dân tộc ta là người Việt, ở đất Việt, ăn cơm Việt, nói tiếng Việt, mà kinh sách bằng chữ ngoại quốc; cả pho triết lý cao sâu của Ðạo Phật cẫn còn nằm nguyên trong 3 tạng chữ Hán, thử hỏi có mấy ai đọc được? Như thế thì bảo tín đồ làm sao hiểu biết giáo lý cao sâu của Ðạo Phật và lòng tin làm sao vững chắc cho được?

Nóng lòng vì tình cảnh ấy, chúng tôi bạo dạn và cố gắng soạn ra chương trình “Phật Học Phổ Thông” này; mong giúp tín đồ mau hiểu giáo lý, thấy được chỗ quý báu của Ðạo, để cho lòng tin được chơn chánh và vững bền. Chúng tôi tự biết mình đức bạc tài sơ, chưa đủ khả năng làm việc vĩ đại này. Nhưng nếu do dự và nhún nhường mãi, rồi suốt đời cũng chẳng làm được việc gì. Chi bằng cứ cố gắng hy sinh đắp trước con đường đất, để cho các bực có tài đức sau này sửa chữa lại, rồi cán đá và tráng nhựa.

*

Chương trình “Phật Học Phổ Thông” có mục đích xây dựng cho tín đồ có căn bản giáo lý, hiểu biết Phật pháp từ thấp đến cao, lấy Ngũ Thừa Phật Giáo làm nền tảng. Từ khóa thứ nhứt đến khóa thứ tư, chúng tôi đã soạn hết Ngũ Thừa Phật Giáo. Khi tín đồ đã hiểu giáo lý căn bản nói trên rồi các khóa sau, chúng tôi sẽ mở thêm bề rộng và xây thêm bề cao của tòa nhà Phật Giáo. Từ khóa thứ V đến khóa thứ XII, tín đồ sẽ tuần tự học về Ðại cương Kinh Lăng Nghiêm, Viên Giác, Duy Thức Luận và Kim Cang, Tâm Kinh.

Chương trình này, chúng tôi đã soạn từ năm 1953 đến nay và đã xuất bản thành tập; từ tập Phật Học Phổ Thông thứ nhứt cho đến tập Phật Học Phổ Thông thứ 12. Công việc trên đây là cả một gánh nặng, mà đường lại dài; chúng tôi khẩn thiết yêu cầu những vị nhiệt tâm vì đạo; từ quý vị Đại đức Tăng Già cho đến các hàng Cư Sĩ; kẻ công người của tiếp sức với chúng tôi (hoặc giúp sáng kiến, tài liệu hay tài chánh); cùng nhau xây dựng cho hoàn bộ một chương trình Hoằng Pháp ở nước nhà, hầu bổ cứu những khuyết điểm và dẹp bỏ những tình tệ trong Ðạo Phật từ trước đến nay. Chúng tôi chấm dứt trong sự tin tưởng ở lòng nhiệt thành vì Ðạo của quý vị độc giả xa gần.

Thích Thiện Hoa.

Phật Học Phổ Thông: Bài 1. Đạo Phật là gì

Phật ra đời vì một nhân duyên lớn: “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Người đời thường nói một cách hời hợt cho qua chuyện, “Ðạo nào cũng tốt!”. Lời nói ấy, hoặc vì xã giao để cho vui lòng khách; hoặc vì chưa rõ bề mặt trong của các Ðạo khác nhau thế nào, nên mới ra như thế. Thật ra về mục đích thì đạo nào cũng có giá trị của nó, chẳng qua chỉ hơn nhau về từng bậc cao thấp mà thôi.

Nhưng mục đích tốt dù sao, cũng chưa đủ. Ðiều quan trọng là làm sao thực hiện được mục đích ấy, và đem lợi ích rộng lớn cho đời. Thử hỏi nếu đạo nào cũng có giá trị như nhau, thì sao trước đây 2500 năm; trong lúc xứ Ấn Độ đã có 94 thứ đạo rồi, mà đức Phật Thích Ca còn giáng sinh làm chi nữa? Chẳng qua các Ðạo tuy nhiều, mà chưa được toàn “chơn, thiện, mỹ”; nên đức Phật mới ứng thân thị hiện, dạy cho chúng sanh đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác; ngõ hầu giải thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, được tự tại vô ngại như Phật.

Kinh Pháp Hoa chép, “Vì một nhân duyên lớn, Phật mới xuất hiện ra đời”. Nhân duyên lớn ấy là gì? – Chính là: “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”, để cho chúng sanh được nhờ đó mà đổi mê ra ngộ thấy tánh tỏ tâm, vượt sống khỏi chết, lìa khổ được vui.

Phật Học Phổ Thông: Đạo Phật nghĩa là gì

1. Chữ Ðạo nghĩa là gì?

Chữ đạo có ba nghĩa: Ðạo là con đường; Ðạo là bổn phận; Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể.

  • Ðạo là con đường, như người ta thường dùng trong những chữ: Nhân đạo, thiên đạo, địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo, súc sanh đạo. Phàm là con đường thì có tốt, xấu, có thiện, ác v.v…Theo đạo Phật, hễ còn trong vòng đối đãi, thì không thể gọi hoàn toàn rốt ráo.
  • Ðạo là bổn phận, như người ta thường dùng những chữ: Đạo vua tôi, đạo thầy trò, đạo vợ chồng v.v…Phàm là bổn phận thì thường chịu ảnh hưởng của phong tục hay tập quán. Phong tục và tập quán của nước này không giống nước kia. Vì vậy, chữ Ðạo là bổn phận cũng chưa đúng với nghĩa chữ Ðạo mà nhà Phật muốn nói.
  • Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể, nó lìa nói năng, không thể nghĩ bàn. Ðức Lão tử nói: “Ðạo mà nói ra được, không phải là đạo”. Xưa có người hỏi một vị Tổ Sư: “Ðạo là gì?”. Tổ sư đáp: “Trước Phật Oai Âm Vương, không có tên Phật và chúng sanh, lúc ấy chính là Ðạo”. Chữ Ðạo của nhà Phật chính là đồng nghĩa với bản thể vậy.
2. Chữ Phật nghĩa là gì?

Chữ Phật, nói cho đúng tiếng Phạn là Bouddha (Phật Ðà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giác Giả, (bực đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn).

Giác có ba bực:

  • Tự giác: Nghĩa là tự giác ngộ hoàn toàn do phước huệ và công phu tu hành, khác với phàm phu là những người còn mê muội, bị luân hồi trong cõi trần lao, khổ hải.
  • Giác tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem phương pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ như mình. Người tu theo Tiểu Thừa không thể có được giác tha, vì chỉ lo giải thoát cho mình. Chỉ người tu theo Ðại Thừa mới có được giác tha; nghĩa là giác ngộ cho hết thảy chúng sanh đang chìm đắm.
  • Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn đầy đủ cho mình và cho người. Những bậc Bồ Tát, tuy đã giác ngộ cho mình và cho người; nhưng công hạnh chưa viên mãn, nên chưa gọi được là “Giác Giác Hạnh Viên Mãn”. Chỉ có Phật mới có được gọi là Giác Hạnh Viên Mãn. Chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đã tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, chứ không phải là một danh từ riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu hành được chứng quả như đã nói trên đều được gọi là Phật cả. 
3. Ðạo Phật nghĩa là gì?

Theo những định nghĩa về chữ Ðạo và chữ Phật đã nói trên, chúng ta có thể giải thích chữ Ðạo Phật như sau: Ðạo Phật là con đường chơn chánh, hoàn toàn sáng suốt đưa đến bản thể của sự vật; là lý tánh tuyệt đối, lìa tất cả hư vọng phân biệt, mà các đấng giác ngộ hoàn toàn đã phát minh ra. Ðạo Phật gồm tất cả tự lợi và lợi tha, tự giác, giác tha; và có công hạnh độ mình, độ người được hoàn toàn thành tựu, rốt ráo viên mãn.

Phật Học Phổ Thông: Ðạo Phật có từ lúc nào?

Có hai nghĩa: Ðứng về phương diện bản thể mà xét thì Ðạo Phật có từ vô thỉ (nghĩa là không có đầu mối, không có giới hạn ở trong thời gian). Vì Ðạo Phật là bản tánh sáng suốt của chúng sanh, nên có chúng sanh là có Ðạo Phật; mà chúng sanh đã có từ vô thỉ thì Ðạo Phật cũng có từ vô thỉ.

Ðứng về phương diện lịch sử và hạn cuộc trong thế giới này mà nói, thì Ðạo Phật đã có từ 2501 năm nay (tính đến năm 1957); trước Thiên Chúa Giáo 544 năm. Ai khai sáng ra Ðạo Phật? Tín đồ Ðạo Phật cần phải biết lịch sử đức Giáo Chủ của mình. Dưới đây, xin kể sơ lược những điểm chính của đời đức Giáo Chủ; người đã khai sáng ra Ðạo Phật, tức là đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, nguyên là Thái Tử nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Ðộ. Phụ hoàng tên Tịnh Phạn Vương Ðầu Ðà Nà (Sudhodana); Mẫu hoàng tên là Ma Da (Maya). Họ Ngài là Kiều Ðáp Ma, xưa dịch là Cù Ðàm; tên Ngài là Tất Ðạt Ða (Shidartha). Còn chữ Thích Ca (Sakya), Tàu dịch là Năng Nhơn: Năng là năng lực, Nhơn là từ bi. Mâu Ni (Muni) nghĩa là Tịch Mặc: Tịch là yên lặng, không bị khổ vui làm động tâm; Mặc là lặng lẽ, không bị phiền não khuấy rối, độ mình độ người, công đức đầy đủ.

*

Lúc nhỏ Ngài có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi thường. Lớn lên nhìn thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc vô thường; Ngài cương quyết xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát cho mình và cho người; ngõ hầu đưa tất cả chúng sanh lên bờ giác ngộ.

Sau sáu năm tu khổ hạnh trong núi Tuyết (Hymalaya); Ngài thấy tu khổ hạnh ép xác như thế, không thể đạt được chân lý, nên Ngài đi qua núi Koda; ngồi dưới gốc cây Bồ Ðề (Tất Bát La, dịch âm theo tiếng Ấn Ðộ) và thề rằng: “Nếu ta không thành đạo, thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”. Với chí hùng dũng cương quyết ấy, sau 49 ngày tư duy, Ngài thấy rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh và chứng đạo Bồ Ðề.

Sau khi thành đạo, Ngài chu du khắp xứ, thuyết pháp độ sinh; để chúng sanh chuyển mê thành ngộ, lìa khổ được vui. Suốt thời gian 49 năm, như một vị lương y đại tài, xem bịnh cho thuốc; Ngài đã dắt dẫn chúng sanh lên đường hạnh phúc và vạch cho mọi người con đường giác ngộ giải thoát. Ðến 80 tuổi, Ngài nhập Niết Bàn ở thành Câu Thi Na, trong rừng Ta La (Song Thọ). Lúc bấy giờ, nhằm ngày Rằm tháng 2 âm lịch.

Phật Học Phổ Thông: Giáo lý Ðạo Phật như thế nào? 

Giáo lý của đạo Phật gồm trong 3 tạng kinh điển là Kinh, Luật, Luận.

1. Kinh

Kinh là những lời của đức Phật Thích Ca đã nói khi còn tại thế. Để dạy chúng sanh dứt trừ phiền não và đạt đến quả Niết Bàn.

2. Luật

Luật là những giới luật mà Phật đã chế ra cho các đệ tử. Để các đệ tử răn chừa các điều dữ, tu tập các điều lành, trau dồi thân tâm cho thanh tịnh.

3. Luận

Luận là những sách phần nhiều do các đệ tử Phật làm ra để bàn giải rõ ràng nghĩa lý mầu nhiệm trong kinh; luật hoặc quyết đoán tánh, tướng của các Pháp; phân biệt những lẽ phải của chánh đạo và tà đạo, khiến cho người đời khỏi nhận lầm phải trái, chánh tà.

Tam tạng kinh điển lại chia làm hai loại là Ðại Thừa và Tiểu Thừa. Chữ Thừa nghĩa là chở, có chỗ cũng gọi là Thặng, nghĩa là cỗ xe. Thừa hay Thặng đều có hàm ý nghĩa là: Giáo lý của Phật có công năng như một chiếc xe, đưa chúng sanh từ nơi cõi trần lao phiền não đến cảnh giới an vui thanh tịnh; từ biển khổ luân hồi đến Niết Bàn, giải thoát. Ðại thừa như là cỗ xe lớn, có thể chở nhiều người trong một lúc; trái lại Tiểu Thừa như là một cỗ xe nhỏ, chỉ chở mỗi lúc một vài người mà thôi.

*

Sở dĩ giáo lý Ðạo Phật chia ra làm Ðại Thừa và Tiểu Thừa như thế, vì căn cơ và nguyện vọng chúng sanh không đồng nhau. Những hạng người nào nhận thấy mình chỉ đủ sức để giải thoát cho riêng phần mình mà thôi; như chiếc xe nhỏ chở được một vài người, thì theo giáo lý Tiểu Thừa.

Những hạng người nào tự nhận thấy mình có thể vừa giải thoát cho mình và cho người ra khỏi sanh tử luân hồi; tự nguyện độ mình và người cùng đi đến Niết Bàn; như một cỗ xe lớn, cùng chở trong một lúc được nhiều người, thì theo Ðại Thừa. Hạng người này rõ biết phiền não, sanh tử như huyễn hóa; nên không chịu sớm an vui ở quả vị cuối cùng của mình, mà thường độ sanh không bao giờ biết mỏi mệt; và vì nhận thấy chúng sanh còn đau khổ, thì mình chưa có thể an vui được.

Phật Học Phổ Thông: Sự Truyền Bá Của Ðạo Phật

Sau khi Phật Thích Ca nhập diệt, hai vị đại đệ tử của Phật là Ngài Ca Diếp và Ngài A Nan thay Phật hoằng truyền Phật pháp ở Ấn độ. Ðó là thời kỳ thứ nhứt. Thời kỳ thứ hai do các vị Tổ sư Long Thọ, Mã Minh và Vô Trước lãnh đạo. Thời kỳ thứ ba do các vị Tổ sư Long Trì, Thiện Vô Úy và Liên Hoa Sanh đảm nhiệm. Từ Ấn Ðộ, Phật Giáo lan truyền vào các nước lân cận, rồi toàn cõi Á Ðông, và cuối cùng toàn cả thế giới. Sự truyền bá này đi theo hai hướng: một hướng về phương Bắc và một hướng về phương Nam.

  • Về phương Bắc, thì gọi là Bắc Phương hay là Bắc Tôn Phật Giáo, hay Ðại Thừa Phật Giáo, gồm có những nước: Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Mãn Châu, Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam v.v..
  • Về phương Nam, thì gọi là Nam Phương hay Nam tông Phật Giáo, hay Tiểu Thừa Phật Giáo; hay Nguyên Thủy Phật Giáo, gồm có những nước: Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên, Nam Dương v.v… Nhưng hiện nhờ sự giao thông tiện lợi và kinh điển được trau dồi khắp các nước; nên sự chia rẽ giữa Bắc tông và Nam tông không còn được rõ ràng như trước: Trong Ðại Thừa vẫn còn có Tiểu Thừa và trong Tiểu Thừa vẫn còn có Ðại Thừa.

Phật Học Phổ Thông: Sự Lợi ích Của Ðạo Phật

Mục đích của Ðạo Phật là đem lại những kết quả đẹp đẽ sau này cho chúng sanh:

1. Chơn thường: Chúng sanh trôi lăn, lặn hụp trong biển sanh tử luân hồi; chúng sanh sống trong cảnh vô thường, khi trẻ khi già, khi lành khi ốm, khi sống khi chết…Ðạo Phật đem lại cho người tu hành một quả vị là không bao giờ bị luật vô thường nói trên chi phối.

2. Chơn lạc: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới tối tăm, buồn tủi, khổ đau; nếu có vui cũng chỉ vui được trong chốc lát; như người khát, uống nước mặn vào; đỡ khát trong chốc lát, rồi về sau lại càng khát hơn lúc đầu. Ðạo Phật có mục đích đem lại cho kẻ tu hành một sự an vui toàn vẹn và bất tận.

3. Chơn ngã: Chúng sanh bị không biết bao nhiêu nghịch cảnh ở chung quanh chi phối, ràng buộc; như kẻ tù tội bị giam hãm trong ngục thất, không bao giờ được tự do hoạt động theo ý muốn của mình. Ðạo Phật có mục đích làm cho những người tu hành được giải thoát hoàn toàn ra ngoài những trói buộc nói trên; làm cho con người đầy đủ năng lực để thực hiện ý nguyện tốt đẹp của mình, và sống một cuộc đời an nhiên tự tại.

*

4. Chơn tịnh: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới ô trọc, lấm láp trong bùn nhơ của cõi tục, từ trong tâm hồn cho đến ngoài thể chất. Ðạo Phật có mục đích làm cho người tu hành gạn lọc được bao nhiêu ô trọc của cõi đời; được sống một cuộc sống trong trắng, tinh khiết; không vướng chút bận nhơ của trần tục. Không phải chỉ trong vị lai Ðạo Phật mới đem lại lợi ích cho đời; ngay trong xã hội hiện tại, Ðạo Phật cũng đem lại nhiều lợi ích quý báu:

  • Ðạo Phật, nhờ tinh thần Từ Bi, làm cho xã hội, nhân loại thương yêu nhau hơn.
  • Ðạo Phật, nhờ ánh sáng Trí Tuệ, làm cho xã hội, nhân loại bớt si mê lầm lạc; thấy được đâu là giá trị thật, đâu là phỉnh phờ, giả dối.
  • Ðạo Phật, nhờ tinh thần Bình Ðẳng tuyệt đối, san bằng được những bất công của xã hội, nhân loại; và làm cho cảnh giới Ta Bà này được sáng sủa, an vui hơn.

Ðó là những lợi ích mà Ðạo Phật đem lại cho cõi đời.

Phật Học Phổ Thông: Kết Luận

Những lợi ích nói trên quý báu như thế, nhưng sẽ không bao giờ đến với chúng ta, nếu không học và hành theo Phật.

  1. Học Phật: Ðức Phật mặc dù là một đấng xuất phàm, thông minh xuất thế, nhưng khi xuất gia Ngài cũng phải học hỏi đêm ngày; cũng phải hao tốn sức biết bao nhiêu, mới phát huy ra được cái giáo lý nhiệm mầu để lại cho chúng ta. Vậy chúng ta muốn trở thành một Phật tử chân chính thì trước tiên là phải học hỏi như Phật. Chúng ta không chỉ học trong giáo lý của Ngài mà còn học qua đời sống, đức hạnh, hành vi của đời Ngài nữa.
  2. Hành theo Phật: Nhưng học mà không tập, không hành, thì chẳng khác gì cái đãy đựng sách; chữ nghĩa kinh sách chất chứa thật nhiều, mà chẳng có ích lợi gì cả. Vậy nên học phải đi đôi với hành. Chúng ta phải cố gắng thực hành cho được những điều đã học; phải làm cho được những điều mình thấy là hay là phải. Phật đã làm gì, chúng ta phải tập làm lại; Phật đã có những đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả, Hoan Hỷ, Tinh Tấn, Thanh Tịnh…chúng ta cũng cố gắng thực hiện cho được những đức tánh ấy. Có như thế, mới khỏi hổ với hai tiếng Phật tử và mới gọi là đền đáp trong muôn một, ân đức sâu dày của đức Từ Phụ Thích Ca.

Sưu Tầm Bởi Tuệ Tâm Admin ( https://kinhnghiemhocphat.com/ )

Xem Thêm:   Tiểu sử doanh nhân Vũ Chầm là ai? Một người con của Phật nhân hậu, giản dị và tận tụy

5 lượt xem | 0 Bình luận
Nam Mô A Di Đà Phật - Pháp Giới là trang chia sẻ phật pháp, kinh phật, pháp âm, câu chuyện phật giáo. Mong góp chút sức lực bé nhỏ để giúp các bạn tiếp cận được đại trí thức của đức Phật. Đừng hỏi tôi là ai. Hãy chấp trì danh hiệu Phật, gieo duyên với Phật Pháp để giúp bạn an lạc.
Pháp Âm Thần Chú Tu Học Blog