Đức Lục Tổ Huệ Năng sinh năm 638, viên tịch năm 713. Năm 24 tuổi được truyền y bát, 39 thế phát, thuyết pháp độ sanh 37 năm. Đệ tử đắc pháp có 43 người, còn số người ngộ đạo thoát trần thì không kể xiết. Ngài vốn là Nhục Thân Bồ Tát thị hiện để độ sanh. “Vì thấy người học Phật thời ấy ưa chấp nói theo kinh văn, không nhận ngay Phật tánh, nên Tổ thị hiện làm kẻ dốt, không biết chữ.”
Theo Pháp Bảo Đàn Kinh: Tổ tên Huệ Năng, thân phụ họ Lư, húy Hành Thao, thân mẫu họ Lý. Đời vua Đường Vũ Đức năm thứ 3 tháng 9 ở tân Châu, bà Lý Thị nằm mộng thấy trước sân hoa trắng đua nở, có đôi chim nhạn trắng bay, hương lạ tỏa đầy nhà, khi tỉnh dậy thì thụ thai. Bà thanh khiết trai giới, hoài thai sáu năm Sư mới ra đời. Ấy là năm Trinh Quán thứ 12 đời Đường Thái Tông, nhằm năm Mậu Tuất ( 638 DL) ngày mồng 8 tháng 2 giờ Tý.
Bấy giờ có một luồng hào quang bay lên không, mùi hương tỏa khắp. Sáng hôm sau có hai vị Tăng đến nhà bảo thân phụ Ngài rằng: “Hài nhi ra đời hồi đêm hãy đặt tên là Huệ Năng”. Thân phụ ngài hỏi vì sao đặt tên ấy, thì vị Tăng đáp: “Huệ có nghĩa là dùng pháp mà ban bố để cứu độ chúng sanh. Năng là có khả năng làm việc Phật”. Nói xong liền từ biệt, không biết đi đâu.
*
- Thiền Tông và Tịnh Độ Tông
- Ma Ha Ca Diếp Tôn giả.
- Mục Kiền Liên Tôn giả.
- A Nan Tôn giả.
- La Hầu La Tôn giả.
- Xá Lợi Phất Tôn giả
- Tổ Bồ Đề Đạt Ma Huyền Tích Chuyện.
Lục Tổ Huệ Năng: Lược Sử
Sư không uống sữa mẹ, về đêm có thần nhân đến nuôi bằng nước Cam Lồ. Năm Sư lên ba tuổi thì thân phụ qua đời. Mẹ Ngài thủ chí nuôi con. Khi trưởng thành làm nghề bán củi nuôi mẹ. Năm hai mươi bốn tuổi nhân khi bán củi. Sư nghe Kinh Kim Cang mà ngộ đạo, liền đến Hoằng Mai tham lễ. Ngũ Tổ nhận là bậc Pháp khí, truyền y bát cho Sư kế vị làm đệ Lục Tổ. Bấy giờ là Long Sóc nguyên niên (661DL) đời vua Đường Cao Tông , nhằm năm tân dậu. Năm ấy, tổ 24 tuổi, đến Hoằng Mai bái yết Ngũ Tổ được truyền pháp.
Ngài về phía Nam tỵ nạn mười lăm năm, đến Nghi Phụng nguyên niên đời vua Cao Tông nhằm năm Bính Tý (676 DL) ngày 8 tháng giêng Ngài hội kiến Pháp Sư Ấn Tông cùng bàn luận ý nghĩa thâm áo. Ấn Tông nhờ Sư mà khế ngộ. Vào ngày rằm tháng ấy, ngài Ấn Tông triệu tập chúng làm lễ thế phát cho Sư, ngày 8 tháng 2, họp các bậc danh đức truyền cụ túc giới.
Ngài Trí Quang luật sư ở tây kinh làm Hòa thượng đàn đầu, Huệ Tịnh luật sư ở Tô Châu làm Yết ma, Thông Ứng luật sư ở Kinh Châu làm giáo thọ, Kỳ Đa La luật sư ở Trung Ấn thuyết giới, Mật Đa Tam Tạng pháp sư ở tây Ấn chứng giới. Còn giới đàn do tam tạng pháp sư Cầu Na Bạt Đà La sáng lập vào triều nhà Tống, có khắc bia để lại huyền ký như sau: “Sau này sẽ có vị nhục thân Bồ tát thọ giới tại đây”.
*
Lại có một lời huyền ký khác nữa, là vào đời vua Lương Thiên Giám nguyên niên, Tam tạng Pháp sư Trí Dược từ Ấn Độ sang Trung Hoa bằng đường biển đã đem một cây Bồ đề từ Ấn Độ đến trồng bên cạnh giới đàn, khắc lời tiên tri như sau: “Cách một trăm bảy mươi năm sau sẽ có vị nhục thân Bồ tát ở dưới gốc cây này khai diễn Tối thượng thừa, độ vô lượng chúng sanh. Người ấy chính là Pháp chủ truyền tâm ấn của Phật”.
Sư đến đấy thế phát thọ giới và khai thị cho bốn chúng tông chỉ Ngài đã kế thừa, nhất nhất đều phù hợp với lời sấm xưa. Tính từ Thiên Giám nguyên niên nhà Lương (Năm Nhâm Ngọ) cho đến Nghi Phụng nguyên niên nhà Đường (năm Bính Tý) cách nhau một trăm bảy mươi lăm năm.
Mùa xuân năm sau, sư từ giã đại chúng trở về núi Bảo Lâm ở Tào Khê. Ấn Tông pháp sư cùng tại gia xuất gia đưa tiễn Ngài hơn một ngàn người đến Tào Khê. Bấy giờ Thông Ứng luật sư ở Kinh Châu cùng trăm đệ tử y chỉ theo Sư.
Sư nhận thấy chùa bảo Lâm ở Tào Khê còn chật hẹp không đủ chỗ cho đại chúng, muốn mở rộng, bèn đến một vị địa chủ trong làng là Trần Á Tiên nói:
– Lão Tăng đến xin thí chủ một khoảnh đất để trải tọa cụ, được không?
Á Tiên nói:
– Tọa cụ Hòa thượng rộng bao nhiêu?
*** Lục Tổ Huệ Năng Huyền Tích Truyện ***
Sư đưa tọa cụ cho xem. Á Tiên bằng lòng. Sư trải tọa cụ ra thì nó choán cả bốn phương tào Khê, có trời Tứ Thiên Vương ngồi trấn giữ bốn góc. ( Nay cảnh chùa ấy có đỉnh núi gọi là Thiên Vương Lãnh là do sự tích này mà đặt tên).
Á Tiên nói:
– Con cũng biết pháp lực của Hòa thượng thật quảng đại, nhưng phần mộ của tổ tiên con đều ở trên đất này, sau có xây chùa tháp xin Hòa thượng giữ lại cho. Còn bao nhiêu đất con xin cúng dường tất cả, vĩnh viễn làm của tam bảo. Nhưng đất này có sanh long mạch, chỉ có thể bình thiên, không nên bình địa. ( Chỗ cao xây nhà thấp, chỗ thấp xây nhà cao, chứ không được san bằng).
Sau đó tất cả công tác xây cất đều giữ đúng theo lời dặn ấy. Sư dạo đến đâu thấy sơn thủy tốt đẹp là dừng, và chỗ ấy thành một nơi lan nhã, cộng tất cả có mười ba nơi.
Nói về sự tích chùa Bảo Lâm ấy thì trước kia cũng do Tam Tạng pháp sư Trí Dược ở Ấn Độ từ Nam Hải sang. Khi ngang cửa Tào Khê múc nước uống thì thấy hương vị tuyệt trần, nên bảo với đồ chúng: “Nước này không khác gì nước ở Tây Vức ta. Chắc là trên nguồn khe có chỗ đất tốt, có thể làm chốn lan nhã”. Bèn đi lên tới nguồn, nhìn xem bốn phía thấy sơn thủy kỳ tú khen: “Thật giống như núi bảo Lâm ở trời Tây (Ấn Độ)”.
*
Ngài bèn bảo cư dân ở thôn Tào nên làm một ngôi chùa, trên một trăm lẻ bảy năm sau Vô Thượng pháp bảo sẽ được khai diễn, người đắc đạo tông như rừng, nên đặt hiệu là Bảo Lâm.
Khi ấy, quan Châu Mục ở Thiều Châu là Hầu Cảnh Trung, làm biểu ấy tâu lên vua nhà Lương, nên vào năm 504 (Thiên Giám năm thứ 3) vua sắc tứ hiệu Bảo Lâm, ngôi chùa liền thành một Phạm cung.
Trước chánh điện có một cái ao đầm, có con rồng thường xuất hiện quấy phá cây cối. Một hôm nó hiện hình rất lớn làm nổi sóng tung tóe, mây mù đầy trời, khiến đồ chúng kinh sợ. Sư mắng rồng:
– Ngươi chỉ biết hiện ra thân lớn, mà không biết hiện thân nhỏ. Nếu là thần long, thì phải biết biến hóa, nhỏ thành lớn, lớn thành nhỏ mới hay.
Con rồng bỗng lặn mất, một lát sau lại hiện thân nhỏ xíu nhảy lên trên mặt ao. Sư giở bình bát ra thách:
– Ngươi không dám vào trong bình bát của Lão Tăng đâu?
Con rồng mắc mưu thủng thỉnh lội tới, Sư đậy nắp bát, rồng không cục cựa được nữa. Sư cầm bát trở vào chùa thuyết pháp cho rồng. Nghe xong, rồng thoát xác mà đi, để lại bộ xương dài bảy tấc, đủ cả đầu đuôi được lưu giữ tại cổng chùa. Sau đó Sư lấp ao. Nay trước điện bên tả có ngôi tháp bằng sắt chính là chỗ xưa rồng ở.
Lục Tổ Huệ Năng: Hiện Thoại Tướng Viên Tịch
Pháp Bảo Đàn Kinh chép: …”Dạy kệ xong, Ngài đoan tọa đến nửa đêm thì gọi đồ chúng mà từ biệt: “Tôi đi nhé” rồi an nhiên thị tịch. Bấy giờ một mùi hương lạ xông khắp, cầu vồng trắng tiếp giáp đến đất, cây rừng biến thành trắng xóa, cầm thú kêu tiếng bi ai.
Đến tháng 11 năm ấy, quan liêu ở ba quận Quảng Châu, Thiên Châu, Tân Châu cùng với đệ tử xuất gia, tại gia đều tranh nhau cung nghênh chơn thân của Ngài về đất của quận nhà, không thể quyết đoán sẽ thỉnh về đâu. Họ đốt hương khấn nguyện rằng, khói bay về đâu thì Đại sư sẽ về nơi ấy. Khi ấy khói hương bay thẳng đến Tào Khê. Ngày 13 tháng 11, nhục thân Ngài được cung nghênh về Tào Khê cùng với y bát.
*
Năm sau, vào ngày 25 tháng 7, quan tài được mở ra, đệ tử của Tổ là Phương Biện tô ngoài thi hài một lớp đất sét nhồi với bột trầm hương. Nhớ lời tiên đoán của Tổ về sự ăn cắp đầu, môn nhâm bèn lấy thiếc và vải sơn quấn vào cổ đề phòng bị trước khi nhập tháp. Bỗng nhiên một luồng ánh sáng trắng xuất hiện từ trong tháp vọt thẳng lên trời ba ngày sau mới tan. Quan sở tại Thiều Châu dâng sớ tâu lên vua, vua lập bia ghi lại đạo hạnh của Tổ.
Lục Tổ thọ 76 tuổi, năm 24 tuổi được truyền y bát, 39 thế phát, thuyết pháp độ sanh 37 năm. Đệ tử đắc pháp có 43 người, còn số người ngộ đạo thoát trần thì không kể xiết.
Cái y của Sư Tổ Đạt Ma truyền lại, y ma nạp và bình bát quý do vua trung Tông tặng cùng với pho tượng của Sư do Phương Biện đắp và các pháp khí khác đều giao người coi tháp giữ gìn vĩnh viễn tại chùa Bảo Lâm. Đàn Kinh này được lưu truyền để hiển minh tông chỉ của thiền, làm cho Tam Bảo hưng thịnh, và đem lại lợi lạc cho quần sanh.
Lục Tổ Huệ Năng: Phụ lục của Người giữ Tháp
Sau khi nhập tháp, vào thời Khai Nguyên năm thứ 10, ngày mồng 3 tháng 8 năm Nhâm Tuất, nửa đêm bỗng nghe trong tháp có tiếng kéo dây sắt. chúng Tăng kinh hãi thức dậy, thấy một người trong tháp chạy ra. Kiểm soát lại thì thấy cổ của Sư bị thương tổn, bèn đem việc ấy trình Châu huyện. Huyện sai Dương Khản, Thứ sử Liễu Vô Thiểm gia công tầm nã.
Năm ngày sau ở thôn Thạch Giác bắt được tên giặc, giải đến Thiều Châu. Hỏi thì y khai là họ Trương, tên Tịnh Mãn, người ở Nhữ Châu, huyện Lương, tại chùa Khai Nguyên, Hồng Châu, có nhận của một Tỳ kheo tên Kim Đại Bi người Tân La (Triều tiên) hai mươi ngàn đồng để đi trộm lấy đầu của Lục Tổ về thờ. Quan Thứ sử họ Liễu nghe lời cung xong, chưa vội gia hình, đến Tào Khê hỏi ý kiến vị thượng túc của Tổ là Linh Thao nên xử thế nào. Linh Thao đáp:
– Căn cứ phép nước mà nói thì đáng tội tru di, nhưng vì Phật giáo từ bi, xem oán thân bình đẳng, vả lại kẻ kia muốn thỉnh về thờ, thì tội cũng nên tha vậy.
Thứ sử nghe xong không ngớt lời ca tụng:
– Thế mới biết cửa Phật là quảng đại!
*
Bèn ra lệnh ân xá. Niên đại Thượng Nguyên năm đầu, vua Túc Tông sai sứ đến thỉnh y bát của Lục Tổ về cung để thờ. Đến Vĩnh Thái nguyên niên vào ngày mồng 5 tháng 5, vua Đại Tông mộng thấy Lục Tổ đến thỉnh y bát, nên vào ngày mồng 7, vua ra sắc lệnh cho quan Thứ sử Dương Hàm rằng:
“Trẫm mộng thấy Năng Thiền Sư đến thỉnh y bát và ca sa về Tào Khê. Nay sai quan Trấn Quốc Đại tướng quân Lưu Sùng Cảnh cung nghinh về đó. Đối với Trẫm đấy là báu vật của nước, nên phải như pháp mà tôn trí tại bổn tự, bảo tăng chúng những vĩ đã đích thân thừa kế tông chỉ, hãy cẩn thận giữ gìn, chớ để hư hao”.
Về sau nhiều lần những bảo vật ấy bị trộm, nhưng chưa đi xa đã lấy lại được.
Vua Hiển Tông truy tăng Sư thụy hiệu là Đại Giám Thiền Sư, tháp hiệu Nguyên Hòa Linh Chiếu.
Ngoài ra, những sự tích khác về Tổ rất nhiều người biên chép như Thượng thư Vương Duy, Thứ sử Liễu Tôn Nguyên, Thứ sử Lưu Ngung Tích … đều thuộc đời Đường.
Lục Tổ Huệ Năng: Một câu chuyện Khai ngộ điển hình
Một vị Tăng tên Chí Triệt, người Giang Tây, họ Trương, trước tên Hành Xương, thuở thiếu thời làm hiệp sĩ. Từ khi Nam Bắc phân hóa, tuy hai vị tông chủ không còn tâm bỉ ngã, mà đồ chúng vẫn khởi yêu ghét. Môn nhân Bắc tông tự lập Thần Tú làm thầy Lục Tổ, nhưng sợ cái chuyện Ngũ Tổ truyền y cho Huệ Năng bị thiên hạ nghe, bèn sai Hành Xương đến ám sát Lục Tổ.
Sư nhờ tâm thông biết trước việc này, đặt sẵn mười lượng vàng ở chỗ ngồi. Khi đêm đến, Hành Xương vào phòng Tổ toan chém thì Sư đã duỗi cổ ra cho. Hành Xương chém ba lần không được. Sư nói:
– Gươm chánh không làm chuyện tà. Gươm tà nên đâm không trúng. Ta chỉ nợ ngươi vàng, không nợ sanh mạng.
Hành Xương kinh hãi ngã lăn ra hồi lâu mới tỉnh lại, xin sám hối, phát nguyện xuất gia. Sư đưa vàng cho, bảo:
– Ngươi hãy đi đi đã, sợ đồ chúng của ta trở lại hại ngươi đấy. Ngày khác thay hình đổi dạng mà tới, ta sẽ độ cho.
Hành Xương vâng lệnh trốn đi, về sau xuất gia. Một hôm nhớ lời Sư dạy, từ xa đến làm lễ.
Sư bảo:
– Ta nhớ ông lâu nay, sao đến chậm thế?
– Bạch Hòa thượng, con nhớ ơn Ngài xá tội, nay tuy xuất gia khổ hạnh vẫn thấy trọn đời cũng không báo được ân đức. Duy chỉ truyền pháp độ sanh họa may đền đáp được chút nào. Đệ tử thường xem Kinh Niết bàn, mà không hiểu nghĩa “thường” và “vô thường” trong đó. Xin Hòa thượng từ bi giải thích cho con.
*
Sư dạy:
– Vô thường là Phật tánh. Thường là cái tâm phân biệt hết thảy ác pháp thiện pháp đó.
Chí Triệt kinh dị, bạch:
– Hòa thượng nói thật trái ngược hẳn văn tự trong Kinh.
Sư bảo:
– Tôi truyền tâm ấn của Phật, đâu dám nói trái với kinh điển?
– Dạ, Kinh dạy rằng Phật tánh là thường mà Hòa thượng lại dạy là vô thường, còn Kinh dạy pháp thiện ác cho đến Bồ đề tâm đều vô thường, thì Hòa thượng lại dạy là thường. Như vậy tức là trái hẳn nhau, làm cho con càng nghi hoặc.
Sư bảo:
– Kinh Niết bàn ngày xưa tôi đã được ni Vô Tận Tạng đọc nghe một lần, rồi giảng nói cho cô, không có một chữ một nghĩa nào là không khế hợp với văn Kinh. Nay nói với ông cũng vậy, tuyệt đối tôi không nói khác đi chút nào.
– Bạch, con trí thức nông cạn, xin Hòa thượng khai thị rõ ràng cho.
*** Lục Tổ Huệ Năng Huyền Tích Truyện ***
– Ông biết chăng? Phật tánh nếu là thường, thì dù nói ra bao nhiêu pháp thiện ác cho tới mãn kiếp cũng không có lấy một người phát tâm Bồ đề. Cho nên, tôi nói vô thường, chính là chỗ Phật dạy chơn thường đó. Lại nếu các pháp là vô thường, thì mỗi vật đều có tự tánh, chịu sanh tử, (khiến cho) tánh chơn thường có chỗ không lưu thông được; cho nên cái thường tôi nói chính là ý nghĩa vô thường của Phật dạy đó.
Phật vì phàm phu ngoại đạo chấp là thường, các người Nhị thừa chấp vô thường, tổng cộng có tám cái chấp đảo ngược, nên mới đả phá những cái thấy một bên của họ, bằng cách trong Kinh Niết bàn, thuyết minh chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chân tịnh. Ông kẹt nơi văn mà quay lưng với nghĩa lý, chấp đoạn diệt là vô thường, và sự cố định là thường, đến nỗi hiểu lầm lời dạy viên mãn vi diệu tối hậu của Phật. Như vậy, thì có xem Kinh một ngàn lần cũng không ích gì.
Hành Xương đại ngộ, trình kệ rằng:
*
Vì cái chấp vô thường
Phật dạy tánh hữu thường
Không biết đấy phương tiện
Như nhặt sỏi ao xuân
(mà tưởng cho là ngọc)
Tôi nay không dụng công
Mà Phật tánh hiện tiền
Không phải do Sư trao
Cũng không phải tôi được.
Sư dạy:
– Ông nay đã triệt ngộ đó, đáng gọi là Chí Triệt.
Chí Triệt lễ tạ mà lui.
Sư thấy những vấn nạn của các tông phái đều mang ác ý, những người này phần nhiều tụ tập tại giảng đường. Sư thương xót dạy rằng:
– Người học đạo thì hết thảy sự nhớ nghĩ về thiện ác đều phải trừ diệt. Vì không có cái tên nào có thể gọi được nên tạm gọi là tự tánh. Cái tánh không hai gọi là thật tánh, từ thật tánh ấy mà xây dựng pháp môn giáo hóa. Hãy ngay nơi lời này mà tự thấy bản tánh đi.
Mọi người nghe lời ấy đều đảnh lễ nguyện xin thờ Ngài làm thầy.
( Lục Tổ Huệ Năng – Theo Pháp Bảo Đàn Kinh )