Luật Nhân quả là gì? “Nhân” là nguyên nhân, “Quả” là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả; nếu không có Quả thì không có Nhân.
Như vậy, Luật Nhân quả là một quy luật vận hành của Tự nhiên. Vạn pháp thế gian hay xuất thế gian, từ hạt bụi nhỏ cho đến Vũ trụ bao la, đều chịu sự chi phối của quy luật này. Đây là quy luật mà đức Phật nhìn thấy bằng Tuệ nhãn và giảng cho chúng ta biết, chớ không phải Đạo Phật tạo ra nhân quả như nhiều người lầm tưởng đâu nhé!
- Cách thay đổi vận mệnh.
- Lời Phật dạy về Đạo hiếu
- Chuyện tâm linh có thật.
- Sự thật về hạn Tam tai.
- Sự thật về Cầu cơ.
- Cách trị bóng đè linh nghiệm nhất.
- Cách trị trẻ khóc dạ đề linh nghiệm nhất
Luật Nhân Quả là gì
Vạn vật trong Vũ trụ không phải tuần hành, biến dịch một cách tự nhiên, vô lý, mà tuân theo một cái luật chung: Luật đó gọi là Luật Nhân quả. Luật này không phải do một đấng quyền năng nào đặt ra, mà là một quy luật của tự nhiên. Luật này được vận hành âm thầm, lặng lẽ, nhưng không bao giờ sai lệch.
Người đời vì không quan sát một cách kỹ càng, tường tận nên không thấy được luật ấy. Do đó, họ đã hành động một cách bừa bãi, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với bản thân mình và với người chung quanh. Chính vì thế mà họ đau khổ, ngụp lặn mãi trong biển mê mờ, tội lỗi. Trái lại, Ðức Phật là vị hoàn toàn giác ngộ, đã nhận thấy luật nhân quả đang chi phối, điều hành mọi sự vật trong vũ trụ nầy. Vì thế Ngài đã hành động một cách sáng suốt, lợi lạc cho chính mình và chúng sanh.
Chúng ta là Phật tử, cần phải hiểu biết cái luật nhân quả mà đấng Từ phụ đã giảng dạy. Từ đó sống và hành động đúng theo như lời Ngài đã dạy. Chỉ như thế mới đem lại hạnh phúc chân thật, lâu bền cho mình và cho người xung quanh.
Những Ðặc Tính Của Luật Nhân Quả
Đặc tính của luật nhân quả: 1. Nhân thế nào thì quả thế ấy.
Nếu ta muốn có quả cam thì ta phải ươm hạt giống cam; Nếu ta muốn có hạt đậu thì ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trồng cam mà lại được đậu, hay trồng đậu mà lại được cam. Người học đàn thì biết đàn, người học chữ thì biết chữ. nói một cách khác, nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau. Hễ nhân đổi thì quả cũng đổi.
Đặc tính của luật nhân quả: 2. Một nhân không thể sanh ra quả
Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào, có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu. Chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng đất nước, nhân công.
Cho nên, khi ta nghe bất cứ ai tuyên bố rằng: “Mọi vật do một nhân sinh ra, hay một nhân có thể sanh ra vạn vật.” Ta có thể chắc chắn rằng, người ấy nói sai sự thật.
Đặc tính của luật nhân quả: 3. Trong nhân có quả, trong quả có nhân
Chính trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; Cũng chính trong cái quả hiện tại, đã có hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra cái quả mà ta mong muốn, chờ đợi. Một sự vật ta gọi là quả, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra trạng thái mà ta mong đợi ước muốn. Mỗi vật, vì thế, đều có thể gọi là nhân hay quả được: Đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và quả tiếp nối nhau, đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền.
Đặc tính của luật nhân quả: 4. Sự phát triển nhanh và chậm từ nhân đến quả
Sự biến chuyển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất: Có những nhân và xảy ra kế tiếp nhau, liền nhau, nhân vừa phát khởi thì quả đã xuất hiện. Như khi vừa đánh xuống mặt trống (nhân) thì tiếng trống liền phát hiện ra (quả); Hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp nhau, thì ánh sáng liền bừng lên.
Có khi nhân đã gây rồi, nhưng quả đợi một thời gian, quả mới hình thành. Như từ khi gieo hạt giống, cho đến khi gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là bốn tháng.
Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm. Như đứa trẻ mới cắp sách đi học đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm.
Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa quả mới xuất hiện. Chẳng hạn như từ ý niệm giành độc lập của một quốc gia, đến khi thực hiện được nền độc lập ấy, cần phải qua bao thế kỷ. Vì lý do mau chậm, trong sự phát hiện cái quả, chúng ta không nên nóng nẩy hấp tấp; Chớ vội cho rằng cái luật nhân quả không hoàn toàn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả.
Luật Nhân Quả Trong Cuộc Sống: 1. Vạn Vật
Thực Tế Như các đoạn trên đã nói, nhân quả chi phối tất cả vũ trụ vạn vật. Không có một vật gì, sự gì, động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần…ra ngoài luật nhân quả được. Ở đây, để có một quan niệm rõ ràng hơn về luật nhân quả, chúng ta hãy tuần tự phân tích hành tướng của luật nhân quả trong mọi sự vật:
1. Nhân quả có trong những vật vô tri vô giác:
Nước bị lửa đốt thì nóng, bị gió thổi thì thành sóng, bị lạnh thì đông lại. Nắng lâu ngày thì đại hạn, mưa nhiều thì lụt, gió nhiều thì sanh bão.
2. Nhân quả trong loài thực vật:
Hạt cam thì sanh ra cây cam, cây cam thì sanh trái cam. Hạt ớt thì sanh ra cây ớt, cây ớt thì sanh ra trái ớt. Nói một cách tổng quát, giống ngọt thì sanh trái ngọt, giống chua thì sanh trái chua, giống nào thì sanh quả ấy.
3. Nhân quả trong các loài động vật:
Loài chim sanh ra trứng, nên chúng ta gọi trứng là nhân, chờ khi ấp nở thành con là quả; Con chim ấy trở lại làm nhân, sinh ra trứng là quả. Loài thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên, trở lại làm nhân sanh con là quả.
4. Nhân quả nơi con người:
Về phương diện thể chất: Thân tứ đại là do bẩm thụ huyết của cha mẹ, và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả,. Cứ tiếp nối như thế mãi, nhân sanh quả, quả sanh nhân, không bao giờ dứt.
Về phương diện tinh thần: Những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tánh tình tốt hay xấu, một nếp sống trong hiện tại: Tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh tình nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh tình và nếp sống này là nhân, để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả. Ðể nhận rõ cái phần tinh thần quan trọng nầy, chúng ta hãy dành riêng ra một mục, để đặt biệt chú ý đến hành tướng của nó dưới đây.
Luật Nhân Quả Trong Cuộc Sống: 2. Tư Tưởng và Hành động
1. Nhân quả của tư tưởng và hành vi không tốt:
Tham: Thấy tiền của người, nổi lòng tham lam sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là nhân; Bị chủ đánh đập hoặc đâm chém, phải tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường, chịu những điều tra tấn, đau khổ là quả.
Sân: Người quá nóng giận, đánh dập vợ con, phá hoại nhà cửa, chém giết người không gớm tay là nhân; Khi hết giận đau đớn, nhìn thấy vợ con bịnh hoạn, nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị, phải chịu nhiều điều khổ cực là quả.
Si mê: Người say mê sắc dục, liễu ngõ hoa tường, không có biết sự hay dở, phải trái là nhân; Làm cho gia đình lủn củn, thân thể suy nhược, trí huệ u ám là quả.
Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi ngờ việc nầy việc khác, ai nói gì cũng không tin, ai làm gì cũng không theo, đó là nhân; Kết cuộc không làm nên được việc gì cả, đến khi lâm chung, buông xuôi hai bàn tay trắng đó là quả.
*
Kiêu mạn: Tự cho mình là hơn cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp lên nhân phẩm người chung quanh, là nhân; Bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một đời lẻ loi, cô độc là quả.
Nghiện rượu trà: Chung quanh tiện bạc ăn nhậu cho thỏa mãn là nhơn; Đến lúc say sưa chén bát ngổn ngang, ghế bàn nghiêng ngả nhiều khi gây ra chém giết nhau làm những điều tội lỗi, phải bị phạt vạ và tù tội là quả.
Say mê cờ bạc: Thấy tiền bạc của người muốn hốt về mình, đắm đuối quanh năm, suốt tháng theo con bài lá bạc, là nhân; Đến lúc của hết nhà tiêu, nợ nần vây kéo, thiếu trước hụt sau, thâm quỹ thụt két là quả.
2. Nhân quả của tư tưởng và hành vi tốt:
Như trên chúng ta đã thấy: Những tư tưởng hành vi xấu xa tạo cho con người những hậu quả đen tối, khổ đau như thế nào, thì những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả sáng lạng, vinh quanh và an vui như thế ấy.
Người không có tánh tham lam bỏn sẻn, thì tất không bị của tiền trói buộc, tâm trí được thảnh thơi.
Người không nóng giận, tất được sống cảnh hiền hòa, gia đình êm ấm.
Người không si mê theo sắc dục, thì tất được gia đình kính nể, trí huệ sáng suốt, thân thể tráng kiện.
Người không hay ngờ vực, có đức tin, thì hăng hái trong công việc; Được người chung quanh tin cậy, dễ thành tựu trong đời.
Người không ngạo mạn thì được bạn bè yêu quý; Được niềm nở đón tiếp, tận tâm giúp đỡ khi mình gặp khó khăn.
Người không rượu chè, cờ bạc thì không đến nỗi túng thiếu, bà con quan biết kình nể tin yêu…
Những điều nầy, không cần phải nói nhiều, bởi ai ai cũng biết. Hàng ngày quanh chúng ta, những cảnh tượng nhân và quả ấy, diễn ra không ngớt. Chỉ cần mở tờ báo hàng ngày, đọc các mục tin tức là thấy ngay. Nói một cách tổng quát, về phương diện tinh thần cũng như về vật chất: Người ta gieo thứ gì, thì gặt thứ ấy.
Áp dụng Luật Nhân Quả vào Cuộc Sống
1. Luật nhân quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền:
Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có gì mơ hồ, bí hiểm. Nó vén tất cả những cái gì đen tối, phĩnh phờ của mê tín dị đoan. Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương: “Vạn vật do một vị thần sinh ra, và uy quyền thưởng phạt muôn loài”. Do đó, người hiểu rõ luật nhân quả sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình; Không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền; Không lo sợ hoang mang.
2. Luật nhân quả đem lại lòng tin tưởng vào chình con người:
Khi đã biết cuộc đời của mình do nghiệp nhân của mình tạo ra, mình là người thợ tự xây dựng đời mình; Mình là kẻ sáng tạo đời mình, mà không tin tưởng ở mình thì còn tin tưởng ở ai? Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng qúy báu. Nó khiến cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt. Vì những hành động tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân quý báu, đem lại những kết quả đẹp đẽ.
3. Lật nhân quả làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc:
Người hay chán nản, hay trách móc là vì đã có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là vì hướng ngoại. Nhưng khi đã biết mình là động lực chính, là nguyên nhân chính của mọi sự thất bại hay thành công, thì còn chán nản trách móc ai nữa? Ðã biết mình là quan trọng như thế thì chỉ còn lo tự sửa mình; Thôi gieo nhân xấu, để khỏi phải gặt quả xấu; Tránh tạo giống ác để khỏi mang cái ác.
Luật Nhân Quả: Giải nghi
Giải nghi về Luật Nhân quả: 1.
Có người nghĩ rằng: Nhân quả là một luật tự nhiên rất đúng đắn công bằng. Nhưng sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở; Trái lại, những người hung ác, sao lại vẫn được an bình?
Ðáp: Những đoạn trên đã nói: Thời gian tiến triển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải khi nào cũng đồng nhau. Có cái nhân từ đời nay, đến đời sau mới hình thành quả v.v… Vậy nếu có người trong đời hiện tại làm việc hung ác, mà được an lành, là do kiếp trước họ tạo nhơn hiền từ. Còn cái nhơn hung ác, mới tạo trong đời nay, thì tương lai hay qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo.
*
Cũng như có người năm nay ăn chơi, không làm gì hết, mà vẫn no đủ. Ấy là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền của để dành vậy. Còn cái nhân ăn chơi không làm năm nay, thì sang năm họ sẽ chịu quả đói rách. Còn người đời nay hiền từ, làm các điều phước thiện, mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở…Ấy là do đời trước, họ tạo những nhơn không tốt. Cái nhơn hiền từ đời nay, qua đời sau họ sẽ hưởng quả vui.
Cũng như có người tuy năm nay siêng năng làm ruộng, mà vẫn thiếu hụt, là vì nhân ăn chơi năm vừa rồi. Cái nhân siêng năng năm nay, sang năm sau họ sẽ hưởng quả sung túc. Do đó, Cổ nhân có nói: Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, Chỉ danh lai tảo dữ lai trì (Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi)
Giải nghi về Luật Nhân quả: 2.
Có người hỏi: Theo luật nhân quả thì làm nấy chịu: Cha làm tội, con không thể thay thế được; Con làm tội, cha không thể thay thế được. Sao thấy có những việc: Cha làm con phải chịu liên can, con làm cha phải chịu ảnh hưởng?
Trả lời: Trong kinh Phật dạy: Nhân quả nghiệp báo có hai thứ: Biệt nghiệp và Cộng nghiệp. Biệt nghiệp là nghiệp báo riêng của mỗi chúng sanh. Như mình có học nhiều thì mình biết nhiều, mình ăn thì mình no; Mình siêng năng thì mình dễ thành công, mình nhác lười thì mình thất bại.
Cộng nghiệp là nghiệp chung cho nhiều chúng sinh, cùng sống trong một hoàn cảnh. Như người Việt Nam, sống trong giai đoạn chiến tranh; Dù giàu, dù nghèo, dù trí thức, dù bình dân, đều chịu ảnh hưởng chung của chiến tranh; Như sanh ở một nước tiên tiến, thì mọi người đều tương đối được hưởng một đời sống vật chất đầy đủ hơn.
Ðã sanh chung một gia đình, một xứ sở hay một dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải có liên quan với nhau. Sách có câu: Nhất nhơn tác phước, thiên nhơn hưởng, Độc thọ khai hoa, vạn thọ hương. (Một người làm phước, ngàn người đều được ảnh hưởng; Một cây trổ hoa, muôn cây chung quanh đều được thơm lây).
Luật Nhân Quả: Lời Kết
Chúng ta đã biết giá trị và sự vận hành của luật nhân quả. Vì vậy chúng ta nên đem bài học nầy ra áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Khi chúng ta làm một việc gì, nói một lời gì, cũng nên nghĩ trước kết quả tốt hay xấu của nó. Đừng làm liều, nói liều, rồi phải chịu hậu quả đau khổ, nhục nhã trong tương lai.
Nếu chúng ta làm được như thế, thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta, mỗi ngày mỗi cải tiến; Các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các việc lành càng thêm tăng trưởng. Và do sự gieo nhân toàn thiện đó, từ địa vị người, chúng ta có thể tiến dần lên đến quả vị thánh hiền.
(Luật Nhân quả – Theo Phật Học Phổ Thông)
Tuệ Tâm 2021.