Địa Ngục Vô Gián là gì
Pháp Giới 11 tháng trước

Địa Ngục Vô Gián là gì

Địa ngục Vô gián là gì? “Địa ngục” là nơi giam giữ thần thức, “Vô gián” nghĩa là liên tiếp không ngừng, không hề có sự gián đoạn. Địa ngục Vô gián là nơi mà thời gian và thân mạng đều không hề gián đoạn, các hình phạt liên miên, không có một chút dừng nghỉ dành cho những thần thức phạm tội cực nặng. Tội nhân nơi ngục này chịu muôn phần khổ sở, nhưng mạng vẫn không đứt đoạn. Họ cứ liên tục chịu cực hình mà chết đi rồi sống lại, sống lại rồi chết đi.

Bài viết này được trích dẫn từ Kinh Địa Tạng giảng giải của Tuyên Hóa Thượng Nhân. Bởi có những tội mà bạn không hề biết rằng: Hễ bộp chộp phạm vào sẽ bị đọa vào Vô gián Địa ngục. Cho nên dù bạn không tin Phật cũng nên đọc lấy một lần. Ít nhất cũng biết được những tội bị đọa vào Địa Ngục này để mà tránh phạm phải. Khi giảng kinh Địa Tạng, Hòa Thượng Tuyên Hóa đặc lưu ý ở phần này, không phải chuyện ngẫu nhiên vậy!

  • Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng chi tiết về Quỷ.
  • Ma Ba Tuần là loại ma gì.
  • Quỷ hấp tinh là gì.
  • Cận tử nghiệp đáng sợ vô cùng.
  • Người chết về đâu sau khi mất.
  • Quả báo tội ngoại tình tà dâm
  • Phật và Ma vương là chuyện không thể so sánh.
Địa ngục Vô gián là gì
Địa ngục Vô gián – Ảnh minh họa.

Địa Ngục Vô gián là gì

Theo Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện: “Bấy giờ, Ngài Ðịa Tạng Bồ tát thưa Thánh Mẫu rằng: “Danh hiệu của những tội báo trong cõi Nam Diêm Phù Ðề như dưới đây:

Như có chúng sinh chẳng hiếu thảo với cha mẹ, cho đến giết hại cha mẹ. Kẻ đó phải đọa vào Vô Gián địa ngục mãi đến nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được.

Như có chúng sinh nào có lòng ác, làm thân Phật bị thương chảy máu, khinh chê ngôi Tam Bảo, chẳng kính Kinh điển. Cũng phải đọa vào Vô Gián địa ngục, trong nghìn muôn ức kiếp không khi nào ra khỏi được.

Hoặc có chúng sinh xâm tổn của thường trụ, ô phạm Tăng, Ni. Hoặc tứ tình làm sự dâm loạn trong chốn chùa chiền, hoặc giết hoặc hại…Những chúng sinh đó phải đọa vào Vô Gián địa ngục, trong nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được.

Như có chúng sinh giả làm Thầy Sa Môn kỳ thật tâm chẳng phải Sa Môn, lạm dụng của thường trụ, trái phạm giới luật, gạt gẫm hàng bạch y, tạo nhiều điều tội ác. Hạng người như thế phải đọa vào Vô Gián địa ngục, trong nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được.

Hoặc có chúng sinh trộm cắp những tài vật lúa gạo, đồ ăn uống y phục, v.v… của thường trụ. Cho đến không cho mà lấy một vật, kẻ đó phải đọa vào Vô Gián địa ngục trong nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được.

*

Ngài Ðịa Tạng Bồ tát thưa rằng: “Thánh Mẫu! Nếu có chúng sinh nào phạm những tội như trên đó thời phải đọa vào địa ngục ngũ Vô Gián, cầu tạm ngừng sự đau khổ chừng khoảng một niệm cũng không được”.

Bà Ma Gia Phu Nhơn lại bạch cùng Ðịa Tạng Bồ tát: “Thế nào là Vô Gián địa ngục?”.

Ngài Ðịa Tạng Bồ tát thưa rằng: “Thánh Mẫu! Bao nhiêu địa ngục ở trong núi Thiết Vi? Lớn có 18 chỗ, thứ kế đó 500 chỗ danh hiệu đều riêng khác nhau. Thứ kế lại có nghìn trăm danh hiệu cũng đều riêng khác nhau.

Nói về địa ngục Vô Gián đó, giáp vòng ngục thành hơn tám muôn dặm, thành đó thuần bằng sắt cao đến một muôn dặm. Lửa cháy trên thành không có chỗ nào hở trống. Trong ngục thành đó có các nhà địa ngục liên tiếp nhau đều có danh hiệu sai khác.

Riêng có một sở ngục tên là Vô Gián. Ngục này châu vi một muôn tám nghìn dặm, tường ngục cao một nghìn dặm, toàn bằng sắt cả. Lửa cháy hực hở suốt trên suốt dưới. Trên tường ngục rắn sắt, chó sắt, phun lửa đuổi nhau chạy bên này sang bên kia.

Trong ngục có giường rộng khắp muôn dặm. Một người thọ tội thời tự thấy thân mình nằm đầy chật cả giường, đến nghìn muôn người thọ tội cũng đều tự thấy thân của mình nằm chật cả trên giường. Ðó là do vì những tội nghiệp đã tạo ra nó cảm vời như thế.

*

Lại những người tội chịu đủ sự khổ sở: Trăm nghìn quỷ Dạ Xoa cùng với loài ác quỷ, răng nanh bén nhọn dường gươm, cặp mắt chói sáng như chớp nhoáng, móng tay cứng như đồng, móc ruột bằm chặt.

Lại có quỷ Dạ Xoa khác cầm chĩa lớn bằng sắt đâm vào mình người tội. Hoặc đâm trúng miệng mũi, hoặc đâm trúng bụng lưng… Rồi dồi lên trên không, lấy chĩa hứng lấy để lại trên giường. Lại có diều hâu bằng sắt mổ mắt người tội.

Lại có rắn sắt cắn đầu người tội. Nơi lóng đốt khắp trong thân thể đều lấy đinh dài đóng xuống giường, kéo lưỡi ra rồi cày bừa trên đó. Lôi kéo người tội, nước đồng đổ vào miệng, dây sắt nóng đỏ quấn lấy thân người tội. Một ngày một đêm, muôn lần chết muôn lần sống lại. Do vì tội nghiệp mà cảm lấy như thế, trải qua ức kiếp, không lúc nào ra khỏi được.

Lúc thế giới này hư hoại thời sanh nhờ qua địa ngục ở thế giới khác. Lúc thế giới khác đó hư hoại thời lại sanh vào cõi khác nữa. Lúc cõi khác đó hư hoại thời cũng xoay vần sanh vào cõi khác. Ðến khi thế giới này thành xong thời sanh trở về thế giới này. Những sự tội báo trong ngục Vô Gián như thế đó.

Lại địa ngục đó do có năm điều nghiệp cảm, nên kêu là Vô Gián. Năm điều đó là những gì?

*
  1. Tội nhơn trong đó chịu khổ ngày lẫn đêm, cho đến trải qua số kiếp không lúc nào ngừng ngớt, nên gọi là Vô Gián.
  2. Một người tội thân đầy chật cả ngục, nhiều người tội mỗi mỗi thân cũng đều chật đầy cả ngục, nên gọi là Vô Gián.
  3. Những khí cụ để hành hình tội nhơn như: chĩa ba, gậy, diều hâu, rắn, sói, chó, cối giã, cối xay, cưa, đục, dao mác, chảo dầu sôi, lưới sắt, dây sắt, lừa sắt, ngựa sắt, da sống niền đầu, nước sắt nóng rưới thân, đói thời ăn hoàn sắt nóng, khát thời uống nước sắt sôi. Từ năm trọn kiếp, đến vô số kiếp những sự khổ sở nối nhau luôn không một giây ngừng ngớt nên gọi là Vô Gián.
  4. Không luận là trai hay gái, Mường, Mán, Mọi rợ, già trẻ, sang hèn, hoặc là Rồng, là Trời, hoặc là Thần, là Quỷ. Hễ gây tội ác theo đó mà cảm lấy, tất cả đều đồng chịu khổ nên gọi là Vô Gián.
  5. Nếu người nào bị đọa vào địa ngục đó, thời từ khi mới vào cho đến trăm nghìn kiếp mỗi một ngày đêm muôn lần chết, muôn lần sống lại. Muốn cầu tạm ngừng chừng một khoảng niệm cũng không đặng. Trừ khi tội nghiệp tiêu hết mới đặng thọ sanh. Do vì lẽ liên miên mãi nên gọi là Vô Gián.

Ngài Ðịa Tạng Bồ tát thưa Thánh Mẫu rằng: “Nói sơ lược về địa ngục Vô Gián như thế. Nếu nói rộng ra thời tên của những khí cụ để hành tội cùng những sự thống khổ trong địa ngục đó, dầu đến suốt một kiếp cũng không thể nào nói cho hết được.””

Địa Ngục Vô gián giảng giải

Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng:

Kinh Văn:

“Như có chúng sanh chẳng hiếu thảo với cha mẹ, cho đến giết hại cha mẹ, kẻ đó phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.”

Lược giảng:

Giả sử có chúng sanh nào bất hiếu, thậm chí nhẫn tâm sát hại cả cha và mẹ của mình, thì kẻ đó phải vĩnh viễn ở trong địa ngục Vô Gián mà đền tội, chẳng bao giờ được thoát ra.

Chúng sanh chúng ta có bổn phận phải hiếu thảo với cha mẹ. Không hiếu thảo với cha mẹ là đã có tội rồi, huống chi là giết hại cha mẹ!? Ðó đều là những tội ác tày trời. Chúng ta làm người thì phải biết ăn ở cho hiếu thảo với cha mẹ, chu toàn bổn phận làm con. Tại sao con người cần phải lo tròn hiếu đạo? Hiếu thảo là gốc của con người; nếu không hiếu thảo với cha mẹ tức là quên mất nguồn cội. Có câu:

Cha cho sự sống, mẹ đẻ dưỡng nuôi

công ơn bao la, khó trọn báo đáp “

Nghĩa là cha cho ta sự sống, mẹ sinh đẻ dưỡng nuôi; công ơn ấy bao la không bờ bến, còn cao hơn trời và dày hơn đất nữa; chúng ta khó thể báo đáp cho trọn vẹn. “Hạo thiên” tức là bầu trời cao rộng hơn hết; song, dù cao đến đâu, rộng đến thế nào, thì cũng không thể sánh bằng công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Cho nên, là kẻ làm con, chúng ta nhất định phải hiếu thuận cha mẹ.

*

Thế nào gọi là hiếu thuận cha mẹ? Phải chăng ngày ngày chúng ta mua cho cha mẹ vài món ngon vật lạ, dăm bộ quần áo mới, tức là có hiếu rồi? Chưa phải! Ðó chỉ là “hình thức,” là lớp vỏ ngoài của sự hiếu thuận mà thôi. Vậy thì “nội dung” của hiếu thuận là gì? Chúng ta phải “lấy thuận làm hiếu”. Tức chiều theo tâm ý và nguyện vọng của cha mẹ mình. Cha mẹ vui thì mình cũng nên vui; những gì cha mẹ yêu thích thì mình cũng nên mến chuộng.

Có người vừa nghe như thế liền nói: “Như thế tức là hiếu thuận ư? Cha tôi thích hút thuốc phiện, mỗi ngày hút hết một lạng; nay tôi hút mỗi ngày hai lạng thuốc tức là tôi có hiếu lắm rồi; vì tôi biết thuận theo sở thích của cha tôi!” Ðó có phải là “thuận” không? Không phải! “Thuận” là thuận theo tâm ý, chứ không phải thuận về chuyện hút xách, ăn uống.

Thí dụ, thấy cha mình thích ăn bánh mì bơ, mình cũng muốn giành ăn: “Con cũng thích món này. Ba để con ăn trước, con ăn no rồi thì ba hẵng ăn!” Ðó gọi là “tranh” chứ không phải “thuận.” “Thuận” ở đây tức là thuận theo những ước muốn chánh đáng của bậc cha mẹ đối với con cái. Chúng ta phải tìm hiểu tâm nguyện cũng như sở thích của cha mẹ để khỏi làm trái ý hoặc phụ lòng mong mỏi của cha mẹ—đó gọi là “hiếu” vậy.

*

Vừa rồi chúng ta có nghe nói là công ơn của cha mẹ thì “toát phát nan báo.” “Toát phát” có nghĩa là số tóc trên đầu. Vậy, “toát phát nan báo” ngụ ý rằng tóc trên đầu còn có thể đếm được (tuy khó!), chứ ơn cha nghĩa mẹ thì khó thể đáp đền; cho nên ai ai cũng phải hiếu thảo với cha mẹ.

Trong khóa hè năm ngoái, tôi đã giảng về câu “dê con quỳ bú, quạ mớm nuôi mẹ.” (Cao dương quỳ nhũ, ô nha phản bộ). Câu này có nghĩa là dê con mỗi khi bú đều quỳ hai chân trước xuống trước mặt dê mẹ, còn quạ con thì biết mớm mồi nuôi quạ mẹ. (Do đó ở Trung Hoa người ta gọi quạ là loài chim hiếu—hiếu điểu). Vì sau khi ấp trứng nở ra quạ con, quạ mẹ già yếu không bay đi kiếm mồi được nữa, quạ con bèn đi tìm thức ăn mang về cho quạ mẹ.

Quý vị xem, quạ và dê đều là loài cầm thú mà còn biết hiếu thảo với cha mẹ, huống hồ là loài người chúng ta? Do đó, nếu chúng ta ăn ở bất hiếu với cha mẹ, thì chúng ta còn thua cả loài cầm thú nữa! Loài người chúng ta có đầy đủ hạnh đức Ngũ Thường—nhân, lễ, nghĩa, trí, tín—thì lẽ nào chúng ta lại chẳng bằng cả loài quạ loài dê? Cho nên, làm người thì điều quan trọng nhất là phải hiếu thảo với cha mẹ!

*

Có người bùi ngùi hối tiếc: “Tôi rất thiết tha muốn báo hiếu cho cha mẹ; tiếc thay nay tôi đã xuất gia đi tu rồi, không thể cận kề hôm sớm để chăm sóc song thân, vậy thì tôi phải làm thế nào để báo hiếu bây giờ?”

Xuất gia tu hành là một hành động thể hiện lòng “đại hiếu,” bởi đó chính là hạnh hiếu thảo vĩ đại nhất, cao cả nhất. Có câu:

Một người con v cửa Phật, tổ tiên chín đời được lên i trời.”

Nếu quý vị xuất gia tu Ðạo thì tất cả tổ tiên trong chín đời đều nhờ công đức tu hành của quý vị mà được siêu thăng lên cõi trời. Cho nên, xuất gia không phải là chỉ báo hiếu cho cha mẹ hiện đời, mà còn báo hiếu cho cả cha mẹ và tổ tiên trong những đời quá khứ nữa! Tuy nhiên, quý vị xuất gia mà phải chân chánh tu hành thì mới báo hiếu được; còn nếu quý vị cứ giải đãi, không tinh tấn dụng công tu tập, thì “cửu tổ” của quý vị vẫn phải đọa địa ngục, và bấy giờ họ sẽ than khóc ầm ĩ.

Vì sao họ khóc? Họ than thở với nhau rằng: “Tôi cứ tưởng là có được đứa cháu xuất gia tu Ðạo thì chúng ta sẽ nhờ đó mà được thăng thiên. Ngờ đâu đứa cháu này lại chẳng chuyên cần tu tập, suốt ngày chỉ biết ngủ với nghỉ, vô cùng lười biếng! Giờ đây những nghiệp tội của chúng ta không được xá miễn chút nào cả, và chúng ta vẫn phải tiếp tục trầm luân trong địa ngục.”

*

Vì vậy, tuy nói rằng xuất gia tu hành thì “cửu tổ” của mình được sanh thiên, nhưng nếu quý vị không tinh nghiêm tu Ðạo thì “cửu tổ” vẫn bị đọa địa ngục như thường. Chớ nói rằng: “Tôi đã xuất gia đi tu rồi, ‘cửu tổ’ nhất định sẽ được thăng thiên!”; bởi vấn đề không phải như vậy! Nếu quý vị chỉ cạo đầu xuất gia rồi chẳng chịu tu hành gì cả, thì “cửu tổ” vẫn không được thăng thiên; trái lại, nếu quý vị chân chánh tu hành thì trong tương lai sẽ siêu độ được cha mẹ cùng tổ tiên của quý vị, và đó chính là “đại hiếu” vậy.

Kinh văn:

“Nếu có chúng sanh nào làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, chẳng kính tôn kinh, kẻ đó cũng phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.”

Lược giảng:

Nếu có chúng sanh nào làm thân Phật chảy máu…” Ðây chỉ là giả thiết, ví dụ là có hạng chúng sanh phạm một tội ác như thế mà thôi. Thế nào gọi là “làm thân Phật chảy máu” (xuất Phật thân huyết)? Hiện nay Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhập Niết Bàn rồi, thì làm sao có thể bị chúng sanh “làm thân Phật chảy máu” được? Vả lại, chúng ta không sanh vào thời Ðức Phật còn tại thế, cũng không gặp được Phật, thì làm sao có thể “làm thân Phật chảy máu” được?

Vào thời Ðức Phật còn tại thế, thì “làm thân Phật chảy máu” có nghĩa là làm cho thân thể của Phật bị tổn thương, gây thương tích cho Phật. Còn sau khi Phật nhập Niết Bàn, thì “làm thân Phật chảy máu” tức là phá hủy tượng Phật, như cố tình làm sứt mất một lỗ tai hoặc làm gãy một ngón tay… của tôn tượng. Ngay cả thiêu đốt các tranh vẽ hình Phật bằng giấy cũng thế, đó cũng chẳng khác nào “làm thân Phật chảy máu” vậy!

*

Tội này vốn không thể sám hối mà tiêu tan được, song có thể tùy theo tình huống mà có sự “khai duyên.” Chẳng hạn nếu do say rượu, mắc bệnh điên cuồng hoặc tâm trí rối loạn bất thường, mà phạm phải, thì được xem là ngoại lệ, không bị khép vào thứ tội này. Tuy nhiên, nếu viện cớ mình tinh thần bất ổn hoặc là say rượu, rồi cố ý làm càn, thì nhất định là có tội. Nếu quý vị do vô tình mà trót phạm, thì nghiệp tội có nhẹ bớt phần nào.

Lúc Ðức Phật còn tại thế, oai lực thần thông của Phật lớn lao như vậy, thì ai mà có thể “làm thân Phật chảy máu” được? Phật đã chứng quả rồi thì ai mà có thể hãm hại, gây thương tích cho Phật được? Ở đời, lắm lúc cũng có những sự việc xảy ra ngoài sức dự liệu của con người—Phật cũng có thể bị ám hại, bị hành hung vậy.

Quý vị đã có bao giờ nghe đến cái tên “Ðề Bà Ðạt Ða” chưa? Tôn Giả Ðề Bà Ðạt Ða vốn là em chú bác của Ðức Phật Thích Ca, nhưng ông lại thường xuyên gây khó dễ cho Phật, chuyên môn chống đối Phật. Phật thuyết pháp này thì ông phá hoại, Phật thuyết pháp kia thì ông đả kích. Nói tóm lại, bất cứ điều gì Phật làm ông cũng bài bác và cho là không đúng cả! Thế thì, Ðề Bà Ðạt Ða hãm hại Ðức Phật như thế nào?

*

Có một lần, Ðề Bà Ðạt Ða tìm một phụ nữ gia cảnh rất nghèo khó, và nói với cô ta rằng: “Cô hãy giúp ta một việc này; khi xong việc, ta sẽ thưởng cho cô một món tiền rất lớn!”

Con người trong cảnh túng thiếu thường dễ bị đồng tiền lung lạc, có kẻ miễn có tiền là chịu làm tất cả, và người phụ nữ này cũng không thoát khỏi lẽ thường tình đó; vì thế, cô ta sốt sắng hỏi: “Ngài cần tôi làm việc gì?”

Ðề Bà Ðạt Ða bảo: “Cô hãy độn một cái gối trong bụng, giả vờ là đang mang thai. Sau đó, đợi đến lúc Phật thuyết pháp thì cô hãy ra trước mặt các đệ tử của Phật mà tuyên bố rằng đứa bé trong bụng cô là con của Phật; như thế, thanh danh của Phật sẽ bị hoen ố và các đệ tử của Phật sẽ không còn tin tưởng ở Phật nữa. Việc thành rồi ta sẽ thưởng cho cô rất hậu hỹ.”

Người phụ nữ ấy y lời, răm rắp làm đúng theo lời dặn—cô độn bụng cho lớn và ngang nhiên nói với đệ tử của Phật rằng đứa bé trong bụng cô ta là con của Phật, cố ý bôi nhọ thanh danh của Phật. Nhưng Ðức Phật có thần thông, Ngài dùng thần thông làm cho cái gối độn bụng của cô ta tuột ra và rớt xuống trước sự chứng kiến của mọi người, nhờ đó ai nấy đều hiểu ra là cô ta muốn vu oan giá họa cho Phật. Ðây là một trong những cách Ðề Bà Ðạt Ða dùng để ám hại Phật trong lúc Phật giảng Kinh thuyết Pháp.

*

Lại có một lần Ðề Bà Ðạt Ða dùng thần thông để ám hại Phật. Bởi Ðề Bà Ðạt Ða cũng có thần thông, cho nên một hôm nọ, nhân lúc Phật đang trên đường tới núi Linh Thứu, ông xô núi cho lở ra để đá lăn đổ xuống, chủ ý là đè Ðức Phật đến tan xương nát thịt.

May thay, ngay khi ông ra tay đẩy núi, thì vị Kim Cang Lực Sĩ (cũng chính là vị sơn thần giữ núi Linh Thứu, tên là Bối Lạp) trông thấy; và thế là từ đàng xa, Thần Bối Lạp giơ chùy Kim Cang ra đỡ lấy núi, khiến bao nhiêu đá núi đều văng ngược trở lại. Ðá bị vỡ vụn văng tung tóe, và có một hòn đá nhỏ văng trúng đầu ngón chân út của Phật, làm cho rách da chảy máu—đây chính là “làm thân Phật chảy máu.” Lần này thân Phật có bị chảy máu song cũng không hề gì; tuy nhiên, liền ngay lúc đó, có một chiếc xe hừng hực lửa của địa ngục chạy đến, Ðề Bà Ðạt Ða bị bắt sống và áp giải về địa ngục.

Ðề Bà Ðạt Ða vừa “làm thân Phật chảy máu” thì liền bị đọa địa ngục ngay lúc còn sống, phải mang nhục thân vào địa ngục. Người đời nay, nếu thiêu đốt hình Phật, phá hủy tượng Phật; hoặc đập phá chùa chiền, tháp miếu thờ Phật, thì đều bị xem là phạm cùng một tội với Ðề Bà Ðạt Ða. Tức là “làm thân Phật chảy máu” vậy.

*

“Hủy báng Tam Bảo.” Thế nào gọi là “hủy báng Tam Bảo”? Chúng ta, những người tin Phật, phải nhớ kỹ là chớ phạm tội này—tuyệt đối đừng bao giờ khinh chê Tam Bảo, nói xấu Phật Pháp Tăng.

Trong Giới hạnh Bồ Tát có giới điều “không rao nói lỗi của Tứ Chúng.” Tứ Chúng là gồm có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Người đã thọ Bồ Tát Giới thì không được rêu rao, bàn tán về những lỗi lầm, sai sót của Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Chính bản thân mình không nói đã đành, nếu bắt gặp người khác nói lỗi của Tứ Chúng thì quý vị cũng đừng góp chuyện hoặc nói hùa theo, mà phải như là mình không nghe thấy gì cả vậy.

Vì sao? Vì nếu quý vị hùa theo họ mà bàn ra tán vào thì quý vị cũng sẽ mắc tội “hủy báng Tam Bảo”; và đồng thời phạm luôn cả tội “rao nói lỗi của Tứ Chúng.” Do đó, tốt nhất là cứ ngậm miệng làm thinh!

Ngoài ra, kiến giải của phàm phu chúng ta thường hay có chỗ sai lầm, bên cạnh đó, cảnh giới của hàng thánh nhân lại không phải là những gì mà phàm phu chúng ta có thể biết rõ được. Chẳng hạn như bậc Sơ Ðịa Bồ Tát thì không thể biết được cảnh giới của hàng Nhị Ðịa Bồ Tát; Thập Ðịa Bồ Tát thì không thể biết được cảnh giới của Ðẳng Giác Bồ Tát; Sơ Quả A La Hán thì không thể biết được cảnh giới của Nhị Quả A La Hán…

*

Cho nên, khi chưa có được trí huệ chân chánh thì chúng ta không nên sanh tâm hủy báng Tam Bảo, và cũng đừng rao nói lỗi của Tứ Chúng. Cho dù họ rõ ràng là có lỗi, quý vị cũng chớ vội phê phán; vì sao? Quý vị biết được cái sai của người ta, thì hãy lấy đó mà răn mình để tránh và làm cho đúng là được rồi; chứ đừng như cái máy chụp hình, toàn lo chụp hình cho người khác, còn chính mình hình thù như thế nào thì lại không hay không biết!

Giảng đến đây, tôi nhớ đến một công án về Chí Công Thiền Sư, đời vua Lương Võ Ðế ở Trung Hoa. Ðương thời, mỗi ngày Chí Công Thiền Sư đều ăn hai con chim bồ câu. Thấy thế, người đầu bếp nghĩ rằng thịt bồ câu hẳn là ngon lắm, và một hôm anh ta lén ăn bớt một cái cánh của chim bồ câu. Chí Công sau khi ăn hết hai con bồ câu thì hỏi anh ta: “Tại sao ngươi ăn vụng thịt bồ câu của ta?”

Người đầu bếp liền chối: “Bạch Thầy, con đâu dám làm thế!”

Chí Công gặn hỏi: “Không phải sao? Ông xem này!” Nói xong, Ngài há miệng và khạc ra hai con chim bồ câu—một con vỗ cánh bay đi liền, còn con kia thì không bay đi được vì bị thiếu mất một cái cánh! Và Ngài hỏi tiếp trước sự sửng sốt của người đầu bếp: “Nếu ông không ăn thì cánh của con chim này mất đi đâu?”

*

Quý vị xem, cùng là ăn thịt chim bồ câu đã được nấu chín và chặt nhỏ, mà Chí Công Thiền Sư thì có thể khạc ra lại nguyên vẹn con bồ câu còn sống; còn người đầu bếp thì không có được khả năng ấy—ăn vào bụng rồi là thôi, chẳng thể làm cho nó sống lại được. Cho nên, cảnh giới của Chí Công Thiền Sư là “ăn mà như không ăn” vậy.

Lại có một công án khác về Tế Công Thiền Sư ở chùa Linh Ẩn tại Tây Hồ, Hàng Châu (Trung Hoa). Ngài là một vị Sư như thế nào? Ngài ăn thịt chó, uống rượu, và ngày nào cũng uống đến say mèm, đến nỗi vừa nhìn là ai nấy đều biết ngay đó là một ông Sư say rượu, chẳng chối cãi gì được! Song, thật sự thì những khi say sưa như thế chính là lúc Ngài giáo hóa chúng sanh.

Một lần nọ, trong chùa tạc một pho tượng Phật và muốn thếp vàng. Tế Công Thiền Sư hay tin liền bạch với Hòa Thượng phương trượng: “Xin Hòa Thượng cho phép tôi thếp vàng pho tượng Phật này, khỏi phải kêu mướn ai cả!”

Hòa Thượng phương trượng bằng lòng. Thế nhưng đợi mãi vẫn không thấy Tế Công thếp vàng cho pho tượng, vị Sư quản lý bèn nhắc: “Ông muốn thếp vàng tượng Phật này, nhưng sao chờ mãi mà không thấy ông làm gì cả?”

Tế Công nói: “Vâng, tôi sẽ làm ngay.”

*

Ðến tối hôm ấy, Tế Công lại cũng uống rượu say mèm như mọi khi, rồi đợi cho mọi người đều đi ngủ cả, Ngài đến trước pho tượng Phật mới tạc và há miệng khạc vàng ra rồi phun lên pho tượng. Bấy giờ, khi toàn thể bức tượng đã được bao phủ bởi một lớp vàng sáng lóng lánh, chỉ còn sót một chỗ trên đỉnh đầu mà thôi, thì vị Sư quản lý nghe thấy tiếng khạc nhổ om sòm của Tế Công, bèn tức tốc chạy đến xem và trách móc: “Sao ông lại cả gan đến thế? Ông dám nhổ đờm lên tượng Phật à?”

Tế Công chỉ nói: “Thế à? Thôi, tôi không nhổ nữa”; và bỏ đi.

Hôm sau, mọi người ra xem thì thấy tượng Phật đã được thếp vàng xong xuôi, chỉ còn sót một chỗ nhỏ trên đỉnh đầu mà thôi. Vì thế, trong chùa phải gọi người thợ chuyên môn thếp vàng đến làm nốt cho xong; nhưng lớp vàng đắp thêm đó lại không đẹp bằng vàng mà Tế Công khạc nhổ ra!

Quý vị xem, cảnh giới của hàng A La Hán thật là không thể nghĩ bàn! Do đó, chúng ta là những người tin Phật thì không nên ngồi lê đôi mách, rao nói lỗi của Tứ Chúng. Bởi nếu đối tượng mà quý vị xúc phạm là người bình thường thì có thể không hề gì, nhưng nếu nhằm bậc thánh nhân đã chứng quả thì quý vị sẽ mang tội. Mang tội thì sẽ ra sao? Thì quý vị sẽ bị đọa địa ngục!

*

Tại sao có những người muốn hủy báng Tam Bảo? Ðó là vì họ không có tín tâm! Nguyên nhân nào khiến những kẻ ấy không có tín tâm? Tùy theo trường hợp, có lúc là do họ giao du nhằm bạn xấu mà ra. “Bạn xấu” là bao gồm những kẻ xấu xa, ác độc, không hiểu Phật Pháp. Những kẻ ác không hiểu Phật Pháp thì thường hủy báng Tam Bảo, do đó nếu người nào kết giao với họ thì cũng bị tiêm nhiễm, dần dần cũng có thói khinh chê, hủy hoại Tam Bảo như họ vậy.

Ngoài ra, những người siểm khúc, ngu si cũng thường hủy báng Tam Bảo. Thế nào gọi là “siểm khúc”? “Siểm khúc” là siểm nịnh, nịnh nọt—người thời nay thường nói là “tâng bốc, bợ đỡ.” Như có những người không tiếc lời ca tụng, tấm tắc khen ngợi quý vị, để được quý vị tin yêu, rồi sau đó lợi dụng sự tin yêu của quý vị để mưu đồ lợi lộc riêng tư—như thế gọi là “siểm khúc,” bởi tâm địa của họ vốn khúc mắc quanh co, gian manh xảo trá, chứ không phải ngay thẳng, thành thật.

Vì sao họ lại siểm khúc như thế? Bởi vì họ ngu si! Song le, những kẻ ngu si đó lại tự cho rằng mình vô cùng thông minh tài trí, nên ôm trong lòng một nỗi “thông minh mạn”—kiêu hãnh, ngạo mạn về trí thông minh hão của mình!

*

“Thông minh mạn” cũng chính là “tăng thượng mạn”—là thứ kiêu căng ngã mạn giống như của năm ngàn người bỏ ra về, không dự Pháp Hội thuyết Kinh Pháp Hoa vậy. Người “tăng thượng mạn” mang trong lòng mối “thông minh mạn”—họ có phần nào thông minh, song rất kiêu ngạo, xem thường người khác, coi ai cũng không bằng mình.

Do thói ngạo mạn về trí thông minh của mình, nên họ không tin Chánh Pháp, lại còn khinh chê, hủy báng giáo lý của Ðức Phật, “móc” bỏ Pháp Nhãn của chúng sanh. Tại sao nói như thế? Bởi chúng sanh vốn có Trạch Pháp Nhãn (con mắt, khả năng biết chọn lựa Pháp), nhưng họ lại muốn làm cho chúng sanh mất phương hướng, lầm đường lạc lối, như thế thì có khác nào cầm dao khoét mất “con mắt” Trạch Pháp Nhãn của chúng sanh?

Những kẻ làm cho chúng sanh không còn Trạch Pháp Nhãn này, trong tương lai sẽ bị quả báo thân thể có khuyết tật hoặc tàn phế, như không có tay hoặc không có chân. “Không có chân” tức là mắc bệnh liệt hoặc bệnh khoèo, và thường là không đi đứng được hoặc chỉ đi khập khiễng. Họ cũng có thể phải chịu quả báo bị câm, tuy có lưỡi nhưng không nói được. Vì sao có người bị câm? Quý vị cần phải lưu ý điểm này—người câm trên thế gian này đều là do hủy báng Tam Bảo mà ra!

*

Những kẻ hủy báng Tam Bảo sẽ bị đọa vào địa ngục và ở đó thọ tội trong suốt hai ức năm, rồi mới được đi đầu thai; đầu thai làm thân gì? Họ phải đầu thai làm thân súc sanh như ngựa, trâu, dê, gà, chó… ; và họ phải mang thân súc sanh như thế suốt hai ức năm, rồi sau đó mới được làm người trở lại. Bấy giờ, tuy họ được mang thân người song sáu căn không toàn vẹn—như bị đui mù, không có mắt; hoặc bị điếc, không nghe thấy gì cả; hoặc bị câm, có lưỡi mà không nói được, chẳng khác gì không có lưỡi vậy…

Nói tóm lại, những người mà đời này lục căn bị khiếm khuyết hoặc tướng mạo xấu xí, đều là do trong đời quá khứ họ đã từng chê bai, hủy báng Tam Bảo. Lúc sống, họ phải chịu đựng vô lượng đau khổ đắng cay như thế, và sau khi chết họ lại còn bị đọa vào địa ngục Vô Gián nữa. Ðó là nói về quả báo do hủy báng Tam Bảo.

“Chẳng kính tôn kinh.” Ðây là điều chúng ta cần phải chú ý—phàm là kinh điển của Phật, chúng ta nhất định phải tôn kính, quý trọng. Kinh Kim Cang có dạy:

Phàm nơi nào có kinh điển thì nơi đó có đức Phật.”

*

Ở đâu có kinh điển thì ở đó có Phật. Kinh điển là nơi an trụ của Pháp Thân chư Phật, do đó chúng ta phải hết lòng cung kính. Nơi cất giữ kinh điển cần phải được thu dọn cho sạch sẽ, ngăn nắp, không nên để bừa bãi. Kinh Phật phải được đặt ở nơi cao ráo và bên trên tất cả các loại kinh điển hoặc sách vở phổ thông khác, và phải để về phía đầu nằm chứ không được để ở phía chân; bằng không, nếu để ở dưới thấp, tức là không cung kính.

Ngoài ra, giường ngủ là nơi không được sạch sẽ nhất, cho nên phải nhớ kỹ là không nên để kinh điển trên giường. Phàm là kinh Phật hoặc sách Phật, chúng ta đều phải cung kính, tôn trọng—phải cung kính kinh điển như cung kính Phật vậy. Không cung kính kinh điển tức là không cung kính Phật, và như thế cũng chính là hủy báng Tam Bảo vậy.

Những nghiệp tội “làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, chẳng kính tôn kinh” là như nhau, cho nên kẻ nào có những hành vi này, thì “kẻ đó phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.” Do đó, mọi người phải nhớ kỹ đoạn kinh văn vô cùng quan trọng này. Người học Phật nhất định phải luôn luôn tôn kính Tam Bảo, quý trọng kinh điển, và không làm thân Phật chảy máu!

Kinh văn:

“Nếu có chúng sanh xâm tổn của Thường Trụ, làm nhơ nhuốc Tăng Ni, hoặc tứ tình hành dâm trong chốn Già Lam, hoặc giết hoặc hại; hạng người như thế phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.”

Lược giảng:

“Nếu có chúng sanh xâm tổn của Thường Trụ…” Thế nào gọi là “xâm tổn của Thường Trụ”? “Thường Trụ” tức là đạo tràng, và có bốn loại (Tứ Chủng Thường Trụ); đó là:

-Thường Trụ Thường Trụ;

-Thập Phương Thường Trụ;

-Hiện Tiền Hiện Tiền Thường Trụ;

-Thập Phương Hiện Tiền Thường Trụ.

1) Thường Trụ Thường Trụ. “Ðạo tràng” thì luôn luôn tồn tại và thường xuyên có người xuất gia trú ngụ, cho nên gọi là chốn “thường trụ của thường trụ.”

“Thường Trụ” là chỗ ở của Tăng chúng; vậy thì thế nào gọi là “xâm tổn của Thường Trụ”? Những thứ gì của Thường Trụ có thể bị xâm phạm, hao tổn? Ðó là thực phẩm (đồ ăn thức uống), và tài vật thuộc về Thường Trụ. Phàm những người chưa xuất gia mà đến ở trong chùa, thì cần phải biết cúng dường cho chùa. Nếu quý vị ở chùa vài ngày rồi bỏ đi, chẳng hề cúng dường Thường Trụ gì cả, như thế tức là quý vị đã “xâm tổn của Thường Trụ” và trong tương lai chắc chắn sẽ bị đọa địa ngục.

*

Vậy thì, thế nào mới là không “xâm tổn của Thường Trụ”? Thí dụ quý vị đến ở trong chùa và có thể cúng dường Thường Trụ một số tiền tương đương với phí tổn mà quý vị phải trả nếu ở trọ nơi khác; như thế thì quý vị không “xâm tổn của Thường Trụ.” Do đó, tôi chủ trương rằng tất cả các đệ tử quy y của tôi, hễ đến bất cứ đạo tràng nào thì cũng đều phải nỗ lực trợ giúp đạo tràng đó và tuyệt đối không được xâm tổn của Thường Trụ!

“Xâm tổn của Thường Trụ” tức là bóc lột tài sản của chùa, làm cho tài sản của chùa bị hao hụt, sút giảm. Chúng ta đã không giúp đỡ được thì thôi; chứ đừng bao giờ xâm phạm, gây tổn thất cho chùa. Những người không hiểu Phật Pháp cứ cho rằng ở trong chùa thì khỏi tốn kém gì cả, nên tha hồ lợi dụng cơ hội! Ðiều này, nếu chưa hiểu Phật Pháp thì còn có thể châm chế cho được; nhưng sau khi đã hiểu Phật Pháp rồi thì dứt khoát là không nên xâm tổn của Thường Trụ nữa!

*

Ðừng nói là người tại gia, ngay cả tôi tuy là kẻ xuất gia, song hễ đến trú ở bất cứ Thường Trụ nào, tôi đều có cúng dường đôi chút. Thí dụ, nếu ở nhà trọ mỗi ngày phải trả năm đồng, thì tôi cúng dường cho Thường Trụ đó một nửa số tiền, tức là ba đồng. Ở lại chùa nào tôi cũng đều cúng dường cả, trừ phi chính mình thật sự không có tiền mà thôi. Nếu quý vị quả thật là không có tiền thì không sao, nhưng nếu có tiền thì chớ nên xâm tổn của Thường Trụ; cho dù là người xuất gia cũng không nên xâm tổn của Thường Trụ.

Bởi Thường Trụ ví như đại địa, là nơi trú ngụ của đại chúng; nếu quý vị phá hoại, phung phí của Thường Trụ, khiến cho đại chúng bị thiếu thốn, không đủ ăn, thì quý vị có tội rất lớn. Riêng cá nhân mình thì dẫu có đói đến chết cũng chẳng hề chi, nhưng nếu quý vị làm cho những người xuất gia đang sống trong Thường Trụ này không còn gì để ăn, cũng không được ai cúng dường, tức là quý vị đã “xâm tổn của Thường Trụ” vậy. Bởi “dân dĩ thực vi thiên”—người dân xem cái ăn là trời, xem sự no cơm ấm áo là điều thiết yếu—cho nên, nếu quý vị khiến cho người khác không còn gì ăn, tức là quý vị đã tạo tội rồi vậy.

*

Cho nên chúng ta, những người nghiên cứu Phật Pháp, hễ ở lại bất cứ chùa nào thì đều nên tùy khả năng mà cúng dường cho chùa đó, không nên xâm tổn của Thường Trụ. Quý vị tạm trú tại chùa, cúng dường dù có ít so với tiền thuê phòng trọ, thì cũng được coi như quý vị đã hết lòng; chớ nên chỉ ở rồi bỏ đi, chẳng cúng dường một chút gì cả!

2) Thập Phương Thường Trụ. Ðạo tràng là nơi mà chư Tăng từ khắp mười phương đều có thể trú ngụ, nên gọi là “thường trụ của mười phương Tăng.”

3) Hiện Tiền Hiện Tiền Thường Trụ. Chư Tăng hiện đang trú ngụ ở đạo tràng được gọi là “hiện tiền Tăng.”

4) Thập Phương Hiện Tiền Thường Trụ. Chư Tăng từ khắp mười phương đến đạo tràng thì đều được dự phần; điều này bao gồm cả đồ vật của “vong Tăng.” Thế nào gọi là “vong Tăng”? “Vong Tăng” tức là vị Sư đã viên tịch. Sau khi một vị Sư viên tịch, những đồ đạc của vị ấy để lại—có thể là những món đồ quý giá, hoặc bảo vật đắt tiền cũng không chừng (bởi giữa các Tăng nhân không có gì là nhất định cả!)—sẽ được Thập Phương Hiện Tiền Thường Trụ phân chia.

Tăng vật thuộc Hiện Tiền Hiện Tiền Thường Trụ thì chỉ dành cho chư Tăng hiện đang tạm thời trú ngụ tại chùa, những vị đến sau không có phần; còn của Thập Phương Hiện Tiền Thường Trụ thì bất kể là đến trước hay đến sau, chư Tăng đều có thể cùng chia nhau di sản của vị Sư đã viên tịch.

*

“Làm nhơ nhuốc Tăng Ni.” Tăng Ni là những người xuất gia—Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. Có nhiều người rất dã man, độc ác, nhẫn tâm làm nhơ nhuốc phẩm hạnh thanh tịnh của Tăng Ni, cưỡng bức các Tỳ Kheo Ni làm điều dâm loạn—những kẻ ấy đều mang tội rất nặng.

“Hoặc tứ tình hành dâm trong chốn Già Lam.” “Già Lam” là nơi thanh tịnh yên tĩnh—như đạo tràng, chùa chiền, tự viện. “Tứ” là phóng túng, không tuân giữ quy củ. Không tuân giữ quy củ gì? Ðó là không tuân giữ thanh quy, tùy tiện hành dâm ở chốn đạo tràng thanh tịnh. Những nơi có hình tượng Phật thì không được hành dâm, làm điều ô uế; nếu phạm, thì bị khép vào tội “tứ tình hành dâm.”

Thuở trước, có một người nọ mắc phải chứng bệnh nam căn thường bị ung nhọt, lở loét, bèn đến thỉnh vấn ngài Mục Kiền Liên về nguyên nhân bệnh trạng của mình. Tôn Giả Mục Kiền Liên trả lời người ấy rằng: “Bởi trong đời quá khứ ông đã phạm tội ‘tứ tình hành dâm trong chốn Già Lam,’ do đó đời này phải chịu quả báo nam căn thường bị làm độc, ghẻ lở, mắc nhiều chứng bệnh.”

*

Ðây là nói về người nam, song nam hay nữ thì cũng vậy. Bất luận là ai, hễ không giữ phép tắc thanh quy, tùy tiện làm điều dâm loạn ở chốn đạo tràng, thì đều bị đọa địa ngục cả; đến khi ra khỏi địa ngục, nếu được đầu thai làm người thì nam căn hoặc nữ căn thường bị ung nhọt; hoặc mắc phải các chứng bệnh nan y, không chữa trị được. Cho nên, “nhân nào quả nấy”. Quý vị nhất định phải tin ở luật nhân quả; bằng không, sau này sẽ phải nhận lãnh quả báo khổ sở.

“Hoặc giết hoặc hại.” Có khi những kẻ độc ác đó, vì việc cưỡng hiếp không thành, bèn nhẫn tâm ám hại hoặc giết chết nạn nhân.

“Hạng người như thế. Tức những kẻ xâm tổn Thường Trụ, ô phạm Tăng Ni, tứ tình hành dâm trong chốn chùa chiền; hoặc giết hại người xuất gia; phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.” Họ cầu mong được thoát khỏi địa ngục song kỳ hạn thì lâu dài đến vô lượng vô biên, không thể tính kể.

*

Có người cảm thấy rằng Phật Pháp càng học càng khó khăn, càng học càng bị gò bó, mất tự do. Kỳ thực, không học Phật Pháp thì sau này sẽ hoàn toàn bị mất tự do; còn học Phật Pháp thì chỉ hiện tại tạm thời bị mất tự do mà thôi. Bây giờ quý vị học Phật Pháp thì đây chính là lúc thiện căn tăng trưởng; trái lại, nếu không học Phật Pháp thì nghiệp chướng sẽ gia tăng. Nghiệp chướng tăng trưởng thì sự “mất tự do” ấy sẽ là “mất tự do” vĩnh viễn.

Song, thiện căn tăng trưởng thì sự “mất tự do” trong hiện tại chỉ là tạm thời, chỉ một thời gian ngắn mà thôi. Nếu quý vị muốn mãi mãi “mất tự do” thì khỏi học Phật Pháp; còn nếu muốn trong tương lai được tự do thì tạm thời chịu khó “mất tự do” đôi chút. Ðối với người học Phật Pháp, sự “mất tự do” này rất ngắn ngủi và không đáng kể; nhưng với kẻ không học Phật Pháp, thì thời gian bị “mất tự do” ấy dài đăng đẳng! Vậy, quý vị hãy tự cân nhắc thiệt hơn, xem mình phải làm như thế nào!

Kinh văn:

“Nếu có chúng sanh giả làm Sa Môn mà tâm chẳng phải Sa Môn, phá hoại, lạm dụng của Thường Trụ, gạt gẫm hàng bạch y, trái phạm Giới Luật, tạo vô số tội ác; hạng người như thế phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.”

Lược giảng:

“Nếu có chúng sanh giả làm Sa Môn…” Có bốn hạng Sa Môn (Tứ Chủng Sa Môn): Thắng Ðạo Sa Môn. Thuyết Ðạo Sa Môn. Hoạt Ðạo Sa Môn và Ô Ðạo Sa Môn.

1) Thắng Ðạo Sa Môn. Thế nào gọi là “Thắng Ðạo Sa Môn”? Chư Phật và chư Bồ Tát đều được gọi là những bậc Thắng Ðạo Sa Môn; tức là hạng Sa Môn trổi thắng hơn hết về Ðạo lý.

2) Thuyết Ðạo Sa Môn. Hạng Sa Môn này lấy việc giảng Kinh thuyết Pháp là lẽ sống; và đó chính là những bậc đại đức cao tăng đã chứng quả A La Hán.

3) Hoạt Ðạo Sa Môn. Ðây là hạng Sa Môn sống đời vì Ðạo, lấy việc tu Ðạo là lẽ sống.

4) Ô Ðạo Sa Môn. “Ô” là ô uế, không thanh khiết. Hạng Sa Môn này làm ô uế Ðạo; và đây chính là hạng Sa Môn được nói đến trong đoạn kinh văn này.

*

“Sa Môn” là tiếng Phạn và có ba nghĩa; ba nghĩa này thật ra không phải là ba mà là hai nghĩa; hai nghĩa này đúng ra chẳng phải là hai mà là một nghĩa. Phật Pháp kỳ diệu như thế đấy! Vậy, chữ “Sa Môn” có một nghĩa, thì một nghĩa đó là gì? Ðó là “cần tức”; “Sa Môn” có nghĩa là “cần tức” tức siêng năng dứt bỏ.

“Cần” là cần mẫn siêng năng; còn “tức” là “hưu tức” và có nghĩa là dứt bỏ, ngưng nghỉ. “Cần” cũng có nghĩa là không lười biếng; và “tức” hàm ý lười biếng, không siêng năng. Thế nên, có thể nói rằng đó là hai ý muốn của một con người—một đằng thì lười biếng, và một đằng thì siêng năng. “Lười biếng” chèo kéo, rủ rê “siêng năng”: “Ðừng đi làm nữa; phải hưởng thụ đôi chút chứ!” “Siêng năng” khuyên can: “Ồ! Anh đừng lười biếng, hãy theo tôi tinh tấn tu tập.”

Vị Sa Môn phải tự đấu tranh, giằng co với hai ý tưởng như thế; hễ bên nào có “thế lực” hơn thì bên đó thắng; “siêng năng” mạnh hơn thì “lười biếng” thua cuộc; “lười biếng” mạnh hơn thì “siêng năng” bại trận. Vậy, đây là một người có hai ý muốn là “cần” và “tức”—siêng năng và biếng nhác—và đó cũng chính là hai nghĩa của từ ngữ “Sa Môn.”

*

Còn nói “Sa Môn” có ba nghĩa, là gồm có những gì? “Cần” (siêng năng) được chia làm ba loại, và “tức” (dứt bỏ) cũng được phân thành ba loại. Ba loại “cần” là gồm những gì? Ðó là “cần tu Giới, Ðịnh, Huệ”. Tức siêng tu Giới, siêng tu Ðịnh và siêng tu Huệ. Còn ba loại “tức” chính là “tức diệt tham, sân, si”. Tức là dứt bỏ tâm tham lam, dứt bỏ tâm sân hận và dứt bỏ tâm si mê. “Giới” là gì? “Giới” chính là:

Chẳng làm điều ác,

Vâng làm việc lành.”

Ngoài ra, “Giới” cũng chính là “chỉ ác phòng phi”. Nghĩa là chấm dứt các việc ác, không làm điều ác nữa; và ngăn ngừa những sai lầm mà mình có thể gây ra. Có bao nhiêu loại Giới? Căn bản thì có Ngũ Giới: không sát sanh; không trộm cướp; không tà dâm; không nói dối; không uống rượu.

Ngoài ra, còn có Bát Quan Trai Giới; Sa Di Thập Giới; Tỳ Kheo Giới (250 giới điều); Bồ Tát Giới (mười trọng giới và bốn mươi tám khinh giới); Tỳ Kheo Ni Giới (348 giới điều). Có người nói là Tỳ Kheo Ni Giới có đến 500 điều, song cũng không đáng kể vì hiện nay đa số Tỳ Kheo Ni đều thọ 348 giới điều.

*

“Ðịnh” là do tham Thiền, tĩnh tọa tu tập mà có được. Muốn có Ðịnh thì phải tu tập, không tu tập thì không thể có Ðịnh. Vì sao người tu hành phải thường xuyên tọa Thiền? Thường xuyên tọa Thiền tức là cách tu Ðịnh từng chút một. Lúc mới bắt đầu tĩnh tọa thì quý vị chưa có Ðịnh. Cho nên cái tâm của quý vị cứ chạy lăng xăng; hết lên trời thì lại xuống địa ngục; không đến chỗ Phật thì cũng vào chỗ Bồ Tát; hoặc có khi lại vào cả chuồng ngựa, trâu, dê, gà, chó, heo…

Cái tâm này, quý vị thấy đó, không cần mua vé mà bất cứ nơi đâu—thiên đường hay địa ngục—nó cũng đều có thể đến được cả. Vì sao cái tâm này cứ chạy lung tung khắp nơi như thế? Bởi vì quý vị chưa có Ðịnh! Bây giờ quý vị tu Ðịnh, tức là thâu nhiếp cái tâm ấy; tập cho nó hết chạy tới chạy lui, không còn lăng xăng lên Nam xuống Bắc, hoặc vào Ðông ra Tây nữa.

Có người thắc mắc: “Vì sao cần phải tu Ðịnh? Không có Ðịnh thì cũng đâu có sao? Quý vị xem kìa, khiêu vũ, múa hát chẳng phải là thú vị hơn sao? ‘Ðịnh’ là nghĩa lý gì? Cứ ngồi yên một chỗ như khúc gỗ thế kia thì có gì lý thú đâu? Các tượng gỗ tượng đất ngồi trơ trơ ở đó thì có ích lợi gì? Tôi thấy như thế quá khô khan, thiếu tình cảm; tu Ðịnh thì có lợi ích gì kia chứ?”

*

Thật ra, tu Ðịnh vốn không có lợi điểm nào cả. Chẳng qua là nếu muốn có trí huệ thì trước hết quý vị cần phải có Ðịnh. Không có Ðịnh thì không có được trí huệ. Nếu tâm mà quá tán loạn thì không thể có Ðịnh; không có Ðịnh tất sẽ không có trí huệ. Bởi trí huệ có được là nhờ Ðịnh; do đó, quý vị muốn không còn si mê thì cần phải tu Ðịnh.

Có một người nói rằng trong lúc tọa Thiền, anh ta luôn có cảm giác như mình sắp bị rớt xuống khe núi, cho nên rất sợ hãi. Ðúng thế, đó là khởi đầu của sự đắc Ðịnh; và lúc bấy giờ, quý vị chớ sanh lòng sợ hãi! Hôm nay, nhân Pháp Hội này, tôi sẽ giảng thêm đôi chút.

Trước đây, tôi có nói là trong khi ngồi tĩnh tọa, lắm lúc quý vị cảm thấy như có dĩa mực đen, hoặc tấm sắt lớn lơ lửng trên không và cứ chực rớt xuống đầu mình; hoặc là đạn nguyên tử sắp nổ tung ngay trên đầu mình. Thế thì, lúc đó quý vị phải làm gì? Lúc đó, quý vị không nên chấp tướng; không nên bám trụ vào cảnh giới; bởi nếu chấp tướng thì quý vị sẽ dễ bị rơi vào ma cảnh. Hễ quý vị chấp tướng thì sẽ có đạn nguyên tử nổ tung trên đầu quý vị thật; còn nếu không chấp tướng thì sao? Thì tất cả sẽ rất tĩnh lặng, yên ổn, không việc gì; và nhất định quý vị sẽ thắng được chúng ma! Quý vị có Ðịnh, thì ma quỷ nào cũng chạy trốn hết!

*

Cảm giác thấy mình như sắp bị rớt xuống vực sâu muôn trượng chỉ là thứ vọng cảnh hư dối, không có thật. Tại sao lại là vực sâu thăm thẳm? Ðó là biểu thị nghiệp chướng của quý vị; nghiệp chướng mà quý vị đã tạo tác từ những đời trước cho đến nay còn thâm sâu hơn cả vực thẳm đó nữa. Vậy, nay biết được là mình nghiệp chướng nặng nề, sâu dày như thế nào rồi, thì quý vị hãy mau mau tu tập, chớ nên sanh tâm sợ hãi nữa.

Lại nữa, đôi khi đang ngồi tĩnh tọa quý vị bỗng cảm thấy rất tự tại; tự tại, tự tại, chân tự tại; một thứ tự tại rất khó hình dung, rất khó diễn tả; và nếu đạt được cảnh giới tự tại này thì quý vị sẽ quên tất cả! Bởi “Sắc Giới trước vị Thiền”—chúng sanh ở cõi Sắc Giới chấp trước vào Thiền vị; vì hương vị của Thiền Na đem lại niềm vui sướng không gì sánh bằng, hơn hẳn mọi loại ma-túy! Cảnh giới đó thật khó mà diễn tả bằng lời được, chỉ có thể nói đó là thứ:

Tự tại, tự tại, chân tự tại;

Khó thể hình dung, nói không lại”;

và:

Như người uống nước, ấm lạnh tự biết.”

*

Ví dụ quý vị uống nước trà, nước nóng hay nguội thì chỉ có một mình quý vị là biết rõ thôi; trường hợp này cũng vậy, cảnh giới tự tại này chỉ có những người từng trải mới hiểu được mà thôi. Thế nào gọi là “người từng trải”? Ðó là những người đã từng đi qua con đường này, đã có kinh nghiệm về cảnh giới này; nhờ vậy, quý vị vừa nói ra là họ liền biết quý vị đang ở giai đoạn nào hoặc đã đạt tới trình độ nào ngay!

Hiện nay, trong số quý vị, có người đã dụng công tu tập và sắp đạt tới cảnh giới Ly Sanh Hỷ Lạc Ðịa của Tứ Thiền. Tuy nhiên, cảnh giới ấy cũng không đáng kể lắm; quý vị chớ cho rằng như thế là tài giỏi, bởi đó là chuyện rất bình thường. Tu Thiền, chỉ cần có thành tâm và chuyên cần, thì ai ai cũng có thể đạt được cảnh giới như nhau. Vì cảnh giới tự tại, vui sướng đó vốn không gì sánh bằng, cho nên được gọi là “Ly Sanh Hỷ Lạc Ðịa”; Tức sắp xa lìa mọi phiền não, đạt được sự vui sướng; và đó cũng là một trong các thứ Ðịnh vậy.

*

“Huệ” tức là trí huệ. Có trí huệ thì có ích lợi gì? Có trí huệ thì sẽ không bị lầm đường lạc lối. Tại sao hiện nay có nhiều người sống một cách điên điên đảo đảo, cứ “lấy khổ làm vui”? Ðó là do họ “bội giác hợp trần”—họ thờ ơ quay lưng lại với đạo lý giác ngộ để hợp cùng đạo lý Lục Trần. Tại sao họ hành động như vậy? Bởi họ không có trí huệ; chính vì si mê nên họ mới lầm lẫn “lấy khổ làm vui” mà lại không biết rằng như thế là si mê nhất!

Quý vị nghe giảng Kinh, không cần phải nghe cho nhiều, chỉ cần nghe hiểu một chữ then chốt rồi đem áp dụng, thì sẽ thấy được sự lợi ích bất tận của chữ đó. Như trong câu “cần tu Giới Ðịnh Huệ,” thì chỉ cần nắm được một chữ “cần” thôi là đủ rồi: Cần mẫn tu Giới, cần mẫn tu Ðịnh, cần mẫn tu Huệ. Phải cần mẫn tu tập thì mới có sự thu hoạch, có sự chứng đắc; không cần mẫn tu tập thì không chứng đắc được gì cả. Do đó, quý vị nhất định phải cần mẫn tu tập; phải vâng lời và tuân theo sự giáo hóa của Sư Phụ mình.

*

Bây giờ nói đến chữ “tức” trong câu: “Tức diệt tham sân si” (dứt bỏ tham sân si). Vừa rồi tôi có nói chữ “tức” này còn có nghĩa là lười biếng; vì sao ư? Chữ “tức” này vốn có nghĩa là đình chỉ, hoặc nghỉ ngơi; mà “nghỉ ngơi” không phải là lười biếng thì là gì? “Nghỉ ngơi” tức là lười biếng; “lười biếng” tức là đình chỉ, là ngừng lại, không tiến thêm nữa. “Ðình chỉ” cái gì? “Ðình chỉ” cái tâm tham, tâm sân, tâm si; cho tham, sân, si được “nghỉ ngơi,” được “về hưu”. Chúng ta không cần dùng đến chúng nữa. Hãy khiến cho tâm tham, tâm sân, tâm si đều đình chỉ!

Quý vị không nên tham muốn gì nữa, ngay cả mọi vật chất hưởng thụ của thế gian. Cũng đừng giận dữ, đừng nổi nóng, đừng để cho “lửa” giận bùng lên; hãy đem tánh nóng nảy, đem “lửa” giận ấy ra bố thí đi; bố thí cho ai? Hãy bố thí cho tôi, bố thí cho Sư Phụ. Sư Phụ cần có những ngọn “lửa” giận thật lớn; cần phải rất nóng tánh, để khiến cho đệ tử nể sợ; chứ nếu Sư Phụ cứ hiền hòa, dịu dàng như cái gối bông thì các đệ tử sẽ không kiêng sợ. Không sợ Thầy thì họ sẽ không chịu tu hành; mà không tu hành tức là lười biếng vậy!

Trên đây là nghĩa “cần tức”—cần tu Giới Ðịnh Huệ, tức diệt tham sân si—của từ ngữ “Sa Môn.”

*

“Mà tâm chẳng phải Sa Môn.” Có nhiều người gian trá, giả làm Sa Môn thôi chứ không phải thật; thâm tâm họ chẳng hề thực hành đạo hạnh của bậc Sa Môn. Họ không “siêng tu Giới Ðịnh Huệ,” cũng chẳng “dứt bỏ tham sân si”; trái lại, còn dám nói rằng tham, sân, si càng nhiều thì càng tốt; và khuyến khích mọi người tốt nhất là hãy quên hết Giới Ðịnh Huệ, chẳng cần nhớ gì cả! Ðó chính là hạng Sa Môn “giả hiệu,” hư ngụy; và tâm của những kẻ đội lốt Sa Môn này không hành hạnh từ bi, không tu hạnh nhẫn nhục, không hành Lục Ðộ Vạn Hạnh. Họ có dụng tâm không làm phận sự của một vị Sa Môn! Thế thì họ làm gì? Họ mượn danh nghĩa Sa Môn để dễ bề “phá hoại, lạm dụng của Thường Trụ.”

Ðồ vật của Thường Trụ, dù là những thứ lặt vặt nhất, tầm thường nhất như một tờ giấy chẳng hạn; chúng ta cũng không được tùy tiện phung phí, vất bỏ bừa bãi; tại sao? Bởi tuy chỉ là một mẩu giấy, nhưng “tích tiểu thành đa”. Từ một tờ mà lâu ngày dồn lại thì cũng thành nhiều. Do đó, tùy tiện phí phạm một tờ giấy, cũng là lạm dụng, làm hao tổn của Thường Trụ.

Có câu rằng:

Dù là một lá cây, một cọng cỏ,

cũng chẳng được không cho mà lấy.”

*

Người ta không cho mình mà mình tự tiện lấy, như thế là trộm cắp. Cho dù đó chỉ là một lá cây hay một cọng cỏ, song hễ chưa được chủ nhân cho phép mà mình đã lấy, tức là trộm cắp vậy. Bất cứ đồ vật gì của người khác, chúng ta đều không được tùy tiện sử dụng. Quý vị dùng đồ của người khác mà người đó lại không biết; như thế cũng là ăn trộm, là phạm giới trộm cắp.

Lại có câu:

Dù là một cây kim, một sợi chỉ,

đều là của bố thí.”

Những gì người ta đem cho chùa, dù là một cây kim hay một sợi chỉ, đều gọi là “của bố thí.” Do đó, chúng ta không được tùy tiện phá hoại, lạm dụng của Thường Trụ. Phàm là đồ vật thuộc về Thường Trụ, thì dù là người xuất gia sống trong chùa cũng không được tùy tiện lấy đem cho kẻ khác.

Trường hợp đó là vật sở hữu của riêng mình thì không sao. Thí dụ quý vị có cái áo không mặc nữa nên đem cho người khác, như thế thì được. Còn nếu là đồ vật thuộc của chung của cả chùa, thì ngay cả một sợi chỉ cũng không được tùy tiện đem cho người khác để lấy cảm tình; bởi đó gọi là “mua lòng cá nhân,” muốn làm cho người ta có thiện cảm với mình, muốn kết thân với dụng ý riêng. Nếu quý vị muốn làm cho kẻ khác có ấn tượng tốt về mình; để họ thích hộ Pháp và cúng dường riêng cho cá nhân mình—thì đó là điều hết sức sai lầm! Tất cả mọi người cần phải đặc biệt chú ý điểm này!

*

Vậy, không cần nhiều, dù chỉ một tờ giấy, một sợi chỉ, thậm chí một hạt gạo của chùa mà thôi. Nếu quý vị vì tình cảm riêng tư mà tự tiện đem cho người khác, tức là quý vị “phá hoại, lạm dụng của Thường Trụ.” Phàm là người xuất gia, đồ đạc của riêng cá nhân mình thì mình có quyền tặng cho người khác; song đối với những thứ thuộc của chung, thì cho dù là một cây nhang mình cũng không được tự tiện đem cho người khác.

“Gạt gẫm hàng bạch y.” “Bạch y” (áo trắng) là chỉ cho hàng cư sĩ, những người tại gia. Những kẻ giả danh Sa Môn ấy chẳng những thiếu thành thật, chỉ toàn nói lời dối trá để lừa gạt người tại gia, mà lại còn “trái phạm Giới Luật, tạo vô số tội ác” nữa. Họ không tuân thủ Giới Luật; không trì giữ Ngũ Giới, Bát Quan Trai Giới, Sa Di Thập Giới; Bồ Tát Giới, Tỳ Kheo Giới, Tỳ Kheo Ni Giới; lại còn gây ra không biết bao nhiêu thứ tội ác. “Vô số” tức là không phải chỉ có một loại, mà là rất nhiều loại. Ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.

“Hạng người như thế, những kẻ giả danh Sa Môn đó, phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.”

Kinh văn:

“Nếu có chúng sanh trộm cắp tài vật, lúa gạo, đồ ăn thức uống, y phục của Thường Trụ, cho đến không cho mà lấy một vật; kẻ đó phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.”

Lược giảng:

“Nếu có chúng sanh trộm cắp tài vật, lúa gạo, đồ ăn thức uống, y phục của Thường Trụ, cho đến không cho mà lấy một vật…”

Thuở trước, có một vị Ðại Bồ Tát phát nguyện rằng: “Giả sử có người phạm các tội Ngũ Nghịch, Tứ Trọng, Thập Ác, thì tôi vẫn có thể cứu độ được. Duy trường hợp trộm cắp tài vật của Thường Trụ, dù chỉ là một lá cây hay một cọng cỏ, thì tôi không thể nào cứu nổi. Vì tôi không có cách nào cứu được người đó. Giả sử có người giết chết tám vạn bốn ngàn cha mẹ của mình, tạo tội nghiệt thâm trọng đến dường ấy, thì bằng nguyện lực của mình, tôi vẫn có thể cứu được người đó thoát khỏi địa ngục. Song le, nếu người đó trộm cắp tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ—dù chỉ một hạt gạo—thì tôi không tài nào cứu nổi!”

*

Qua lời nguyện trên, quý vị có thể thấy được rằng trộm cắp tài vật của chùa là tội lớn nhất, nghiêm trọng nhất. Chúng ta, những người tin Phật, cần phải hiểu cho thấu đáo điều này. Phàm là tài sản của Thường Trụ, như lúa gạo, đồ ăn thức uống; hoặc ngay cả một món đồ hết sức nhỏ bé, tầm thường. Nhưng nếu chưa được chủ nhân ở chùa cho phép thì quý vị cũng không được lấy; bằng không, sẽ mắc tội “không cho mà lấy.” Và như thế, “kẻ đó phải đọa vào Ðịa Ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.”

Sưu Tầm Bởi Tuệ Tâm Admin ( https://kinhnghiemhocphat.com/ )

Xem Thêm:   Vì sao câu khởi đầu Kinh luôn là: “Tôi nghe như vầy, một thời đức Phật…”

33 lượt xem | 0 Bình luận
Nam Mô A Di Đà Phật - Pháp Giới là trang chia sẻ phật pháp, kinh phật, pháp âm, câu chuyện phật giáo. Mong góp chút sức lực bé nhỏ để giúp các bạn tiếp cận được đại trí thức của đức Phật. Đừng hỏi tôi là ai. Hãy chấp trì danh hiệu Phật, gieo duyên với Phật Pháp để giúp bạn an lạc.
Pháp Âm Thần Chú Tu Học Blog