Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bản trường ca bất tận về Bi tâm độ sanh của Tam Thế Chư Phật! Từ bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, Ngài rời Nội Viện Cung Trời Đâu Suất giáng sanh nơi cõi Ta Bà đầy uế trược này. Ngài cũng chịu bao nỗi đau khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người chúng ta. Vì hết thảy chúng ta mà tìm đường Giác Ngộ. Để giúp chúng ta hội nhập tri kiến Phật, vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử luân hồi. Ơn đức ấy, bút mực thế gian nào tả cho xiết được?!!!
Cuộc đời của đức Phật được chia làm 2 giai đoạn chính:
- Giai đoạn 1, từ lúc Giáng sanh cho đến lúc Thành Đạo.
- Giai đoạn 2, từ lúc Thành Đạo cho đến lúc nhập Niết Bàn.
- Kinh Niệm Phật Ba La Mật.
- Kinh Lăng Nghiêm.
- Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện.
- Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni.
- Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni.
- Cách tụng kinh tại nhà.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Giai đoạn 1
Từ giáng sanh đến lúc Thành Đạo
Bất luận một tôn giáo nào, vị giáo chủ bao giờ cũng là một tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến bước. Nhưng trong các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có trên thế giới này, không có một vị nào đầy đủ ý nghĩa cao đẹp và có một đời sống sâu xa bằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi im lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng ta.
Nếu chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ đời sống của Ngài, thì sự học hỏi của chúng ta còn phiến diện, thiếu sót. Ðời Ngài chính là những biểu hiện giáo lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời Ngài đã nói. Ðời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để người đời nhận thấy rằng giáo lý của Ngài có thể thực hiện được. Giáo lý ấy không phải là những lời nói suông, không tưởng hay những lâu đài xây dựng trên mây khói.
Vậy cho nên khi chúng ta học hỏi đời Ngài, chúng ta không nên có cái quan niệm học cho biết để thỏa mãn tánh hiếu kỳ. Chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa thâm thúy của đời sống ấy để đem áp dụng cho đời sống của chúng ta. Làm được như thế mới khỏi phụ ý nguyện lớn lao của đức Phật khi giáng sanh xuống cõi Ta-Bà này và đã cam chịu bao nỗi đau khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người chúng ta.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 1. Giáng Sanh
Thường trong danh từ nhà Phật. Khi nói đến sự hiện diện của đức Phật Thích Ca trong cõi đời này, người ta thường dùng chữ đản sanh: Nghĩa là một sự ra đời vui vẻ, làm hân hoan, xán lạn cho cõi đời; Hoặc thị hiện: Nghĩa là hiện ra bằng xương bằng thịt, cho con mắt trần của chúng ta thấy được; Hoặc giáng sanh: Nghĩa là từ một chỗ cao mà xuống một chỗ thấp để sanh ra.
Ba chữ ấy đều có 3 ý nghĩa khác nhau:
- Chữ đản sanh dùng để ca tụng một bậc tôn quý ra đời.
- Chữ thị hiện hàm ý: Phật bao giờ cũng có cả, nhưng vì mắt người không thấy được, phải hiện rõ ràng ra mới thấy.
- Chữ giáng sanh hàm ý: Đức Phật ở một cảnh giới cao hơn, tốt đẹp hơn mà hạ xuống cảnh giới phàm trần này.
Ba chữ ấy mặc dù khác nhau, nhưng đều có thể dùng để chỉ sự ra đời của đức Phật. Trái lại, khi một người phàm ra đời thì gọi là “đầu thai”. Ðầu thai có nghĩa là bị nghiệp báo hoặc thiện hay ác bắt buộc phải luân hồi để chịu quả báo lành hay dữ. Còn giáng sinh hay thị hiện thì không hàm cái nghĩa bị nghiệp nhân câu thúc; Mà do nơi lòng từ bi, muốn lợi ích cho chúng sanh, nên tự nguyện ứng thân xuất hiện ra đời trong một thời gian để cứu độ chúng sanh; Xong xuôi thì thâu thần tịch diệt, tự tại vô ngại ra ngoài sống chết.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 2. Hoàn Cảnh Và Dòng Dõi Của Ðức Thích Ca
Ðức Phật giáng sinh ở xứ Trung Ấn Ðộ, bây giờ là nước Népal. Một nước ở ven sườn dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi cao nhất thế giới. Phong cảnh ở đấy rất đẹp.
Đến mùa xuân cả nước đơm bông nảy lá như một vườn hoa vĩ đại. Dân cư ở xứ ấy rất là thuần lương. Vị vua trị vì là Tịnh Phạn. Một vị vua thuộc dòng Thích Ca, là một dòng họ lớn đã mấy mươi đời nối nghiệp trị vì đất nước này. Bà Hoàng Hậu Ma Da, cũng là một người thuộc dòng vua chúa đã lâu đời. Cả hai ông bà vua Tịnh Phạn đều là người đã nhiều kiếp tu hành, có đức hạnh lớn, xứng đáng làm cha mẹ muôn dân.
Một hôm, trong thành Ca Tỳ La Vệ, kinh đô của vua Tịnh Phạn, có lễ vía tinh tú, vua tôi cùng nhau mở hội ăn chơi. Hoàng Hậu Ma Da, sau khi dâng hương hoa cúng kiến trong cung điện rồi, ra ngọ môn bố thí thức ăn, đồ mặc cho dân bần cùng. Khi trở về cung an giấc. Bà nằm mộng thấy một con voi trắng sáu Ngà từ trên hư không xuống, lấy Ngà khai hông bên hữu của Bà mà chun vào.
*
Bà đem điềm chiêm bao ấy thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Vua ra lịnh mời các thầy đoán mộng. Các nhà tiên tri đoán rằng: “Hoàng hậu sẽ sanh một quý tử tài đức song toàn”. Vua Tịnh Phạn rất mừng rỡ, vì ngôi báu từ đây sẽ có người truyền nối.
Ðến sáng ngày mồng tám tháng tư âm lịch (trước Tây lịch 624 năm), Tại vườn Lâm Tỳ Ni, cách thành Ca Tỳ La Vệ 15 cây số. Hoàng hậu Ma Da đang ngoạn cảnh, trông thấy cành hoa Vô Ưu mới nở, thơm ngát. Bà đưa tay phải với hái, thì Thái Tử cũng vừa xuất hiện ngay đấy.
Ngày đản sanh Thái Tử, trong thành Ca Tỳ La Vệ, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường. Khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa trổ trái; Sông, ngòi, mương, giếng nước đều trong đầy; Trên hư không chim chóc và hào quang chiếu sáng cả mười phương. Vua Tịnh Phạn vui mừng khôn xiết mời các vị tiên tri đến xem tướng Thái Tử.
*
Trong số ấy, có đạo sĩ tên A Tư Ðà tu ở núi Hy Mã Lạp, tiên đoán rằng: Thái Tử vì có 32 tướng tốt xuất hiện, nên sẽ trở thành một vị Thánh. Nhưng vua Tịnh Phạn lại chỉ muốn con mình làm một vị vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì thế, Tịnh Phạn Vương muốn đổi số mệnh con mình, nên đặt tên cho Thái Tử là Tất Ðạt Ða (Siddartha). Theo tiếng Phạn, nghĩa là: “Kẻ sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ”. Chức vị mà Tịnh Phạn Vương muốn ám chỉ đây tức là ngôi Vua.
Ngài không ngờ rằng chính thật chức vị của Ngài là chức vị Phật. Hoàng hậu Ma Da sau khi sanh Thái Tử được bảy ngày, vui thú quá vì thấy mình đã làm tròn nhiệm vụ cao quý; Và đã rửa sạch nghiệp báo nên Bà trút được xác phàm và sanh về cõi trời Ðao Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái Tử cho em gái Hoàng hậu là Ma Ha Ba Xà Ba Ðề nuôi dưỡng.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 3. Tài Năng Và Ðức Hạnh Của Thái Tử
Thái Tử mỗi năm mỗi lớn, diện mạo càng thêm khôi ngôi, tài năng càng phát lộ gấp bội. Ngài có một sức khỏe hơn người, một trí thông minh xuất chúng. Từ nghề văn cho đến nghiệp võ, Thái Tử học với ông nào thì trong ít hôm sau, vị giáo sư ấy phải xin cáo thối, vì không còn đủ sức để dạy nữa. Cho đến ông thầy danh tiếng đệ nhất thời bấy giờ là Sằn Ðề Ðề Bà cũng chịu khuất phục Ngài luôn.
Mặc dù tài sức hơn người, thông minh xuất chúng lại ở trong địa vị cao sang quyền quý tột bậc. Thái Tử không bao giờ tỏ vẻ ngạo mạn, khinh người. Ngài có một thái độ rất hòa nhã ôn hòa, vô tư, bình đẳng. Lòng thương người, thương vật của Ngài không ai sánh kịp. Hễ có dịp giúp đỡ, thì dù khó khăn bao nhiêu Ngài cũng không từ nan. Bởi thế, Ngài được trên Vua cha yêu quý, dưới thần dân kính trọng, nể vì.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 4. Những Ràng Buộc Của Tịnh Phạn Vương Ðể Ngăn Chí Xuất Gia Của Thái Tử
Càng thương yêu, quý trọng con, Tịnh Phạn Vương lại càng lo sợ con mình sẽ không ở lại với mình. Ông sợ con sẽ xuất gia tìm Ðạo để thành một vị Thánh, như lời tiên đoán của đạo sĩ A Tư Ðà. Nhất là khi nhận thấy càng lớn, Thái Tử lại càng có vẻ suy nghĩ xa xăm, và nét mặt Thái Tử lại không được vui tươi như thời thơ ấu. Vua Tịnh Phạn lại càng lo sợ rằng lời tiên tri xưa sẽ thực hiện.
Bởi thế, Vua cùng triều thần ngấm ngầm sắp đặt mọi kế hoạch để ràng buộc Thái Tử ở lại ngôi báu. Ngài truyền xây dựng ba tòa lâu đài nguy nga tráng lệ để Thái Tử thay đổi nơi ăn chốn ở cho hợp thời tiết quanh năm; Và chọn từng trăm cung phi mỹ nữ có tài đàn ca hay, múa giỏi để giải khuây cho Thái Tử.
*
Nhưng chừng ấy cũng chưa đủ, Ngài còn làm lễ thành hôn cho Thái Tử với một Công chúa con vua Thiện Giác là Da Du Ða La. Một Công chúa tuyệt đẹp và đức hạnh vô cùng. Thái Tử bị bắt buộc phải lập gia thất và có một con là La Hầu La. Nhưng, mặc dù sống một cuộc đời quá đầy đủ: Nào chức tước danh vọng, nào lâu đài cung điện; Nào đàn ca múa hát, nào vợ đẹp con ngoan… Thái Tử vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn, thắc mắc.
Ngài cho cảnh đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân thật, mà là giả dối, mê muội; Chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề đau khổ. Ngài thấy cần phải tìm một lối thoát, một cuộc sống chân thật, có ý nghĩa và cao đẹp hơn.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 5. Nhận Ra Bốn Tướng Khổ Ở Ðời
Một hôm, nhân ngày lễ hạ điền, Thái Tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày cấy. Cảnh xuân, mới nhìn qua, thật là đẹp mắt, nào hoa lá tốt tươi, muôn chim đua hót; Nào bầu trời quang đãng, gió xuân phơi phới.
Cảnh tượng có vẻ thái bình, an lạc lắm. Nhưng tâm hồn Thái Tử không phải là một tâm hồn hời hợt, xét đoán một cách nông nỗi. Trái lại, Ngài nhìn sâu vào trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cõi đời không đẹp đẽ an vui như khi mới nhìn qua.
Ngài thấy người nông phu và trâu bò làm việc một cách cực nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ. Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống côn trùng đang giãy giụa trên những luống đất mới cày. Cũng trong lúc ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con chim kia; Và trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang rình bắt người thợ săn.
* Cuộc đời đức Phật *
Thật là một cảnh tương tàn tương sát, không phút giây nào ngừng! Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn nhau không biết gớm. Ngài nhận thức rõ ràng sự sanh sống là khổ.
Một hôm khác, Ngài xin phép Vua cha đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa Ðông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc; Lưng còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã.
Ðến cửa Nam, Thái Tử thấy một người đau nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng.
Ðến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái thây chết nằm giữa đường; Ruồi lằng bu bám, và sình lên, trông rất ghê tởm.
Ba cảnh khổ già, đau, chết. Cộng thêm vào cái ấn tượng tương tàn trong cuộc sống mà Thái Tử đã nhận thấy khi đi xem lễ cày ruộng, làm cho Ngài đau buồn, thương xót chúng sanh vô cùng.
*
Một hôm khác nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tĩnh thản nhiên như người vô sự đi ngang qua đường. Thái tử thấy trong lòng nảy sinh một cảm mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào mừng và hỏi về ích lợi của sự tu hành.
Vị Sa môn đáp rằng: “Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng buộc của cõi đời. Để cầu cho mình khỏi khổ và thành chánh giác để phổ độ chúng sanh đều được giải thoát như mình”. Lời giải đáp trúng với hoài bão mà Thái Tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài khôn xiết vui mừng.
Ngài liền trở về cung xin vua cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không nhận lời. Thái Tử yêu cầu vua cha 4 điều, nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn việc đi tu, để trở lại lo chăn dân, trị nước. Bốn điều ấy là:
- Làm sao cho con trẻ mãi không già.
- Làm sao cho con mạnh mãi không đau.
- Làm sao cho con sống hoài không chết.
- Làm sao cho mọi người hết khổ.
Bốn điều này làm cho vua cha bối rối, không giải quyết được điều nào cả.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 6. Sự Xuất Gia Tìm Ðạo
Vua Tịnh Phạn, khi biết được ý định xuất gia của Thái Tử, lại càng lo sợ, lại tìm hết cách để ngăn cản, ràng buộc Ngài trong “Cung Vui”. Nhưng một khi Thái Tử đã quyết thì không có sức mạnh gì ngăn trở được ý định của Ngài.
Một đêm khuya thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ say ngủ sau một cuộc yến tiệc linh đình. Thái Tử lén trổi dậy, nhìn vợ con lần cuối, rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa Nặc dậy, thắng yên cương trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng tám tháng hai, và Ngài được 19 tuổi.
Sau khi dứt bỏ khỏi cuộc đời vương giả, Thái Tử đi vào rừng sâu tìm Ðạo. Ban đầu Ngài đến ở tu với các vị tu khổ hạnh. Nhưng hạng người này sống một cách kham khổ, nhịn ăn nhịn uống, dãi nắng, dầm sương; Hành thân hoại thể một cách ghê rợn. Thấy cách tu hành như thế không có hiệu quả, Ngài khuyên các vị đó nên bỏ phương pháp tu hành ấy, nhưng họ không nghe. Ngài lấy làm thương cho họ, bèn tìm đi nơi khác để tu hành.
*
Ngài đi hết chỗ này đến chỗ khác, ở đâu nghe có một vị tu hành đắc đạo thì Ngài tìm đến học; Nhưng đến đâu thì Ngài thấy đạo của họ vẫn còn hẹp hòi, thấp thỏi; Không thể giải thoát cho con người hết khổ được. Từ đấy Ngài tìm chốn tu tập một mình. Đêm ngày nghiền ngẫm đến đạo giải thoát, quên ăn bỏ ngủ thân hình mỗi ngày mỗi tiều tụy. Một hôm Ngài kiệt sức, nằm ngã liệt trên cỏ, và được một người chăn cỏ đến đổ sữa cho Ngài tỉnh lại.
Từ đó Ngài nhận thấy nếu muốn tìm Đạo có kết quả, cần phải bổ dưỡng thân thể cho được mạnh khỏe, chứ không bỏ quên nó đi được. Khi thấy mình đủ sức khỏe để chiến đấu trong trận cuối cùng với bóng tối si mê và dục vọng, và đem lại ánh sáng Giác ngộ, Ngài đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Ðề và thề rằng: “Nếu ta không thành đạo thì thịt nát xương tan, ta cũng quyết không rời chỗ này.”
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 7. Thành Ðạo
Thái Tử đã ngồi nhập định 49 ngày đêm dưới gốc Bồ Ðề. Trong 49 ngày ấy Ngài đã chiến đấu với bọn giặc phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, nghi, mạn…và chiến đấu với giặc Thiên Ma do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy. Sau khi thắng cả giặc ở nội tâm lẫn ngoại cảnh, tâm trí được khai thông. Ngài hốt nhiên đại ngộ.
- Trong đêm thứ 49, vào canh hai, Ngài chứng được quả “Túc Mệnh Minh”. Thấy rõ được tất cả quá khứ của mình trong tam giới.
- Ðến nữa đêm, Ngài chứng được quả “Thiên Nhãn Minh”. Thấy được tất cả bản thể của vũ trụ và Ngài, cùng nguyên nhân cấu tạo của nó.
- Ðến canh tư, Ngài chứng được quả “Lậu tận Minh”. Rõ biết nguồn gốc của đau khổ và phương pháp dứt trừ đau khổ để được giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Từ ấy, Ngài được Ðạo vô thượng, thành bậc “Chánh Ðẳng Chánh Giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày thành đạo của Ngài tính theo âm lịch là ngày mồng 8 tháng 12, vào lúc sao mai mọc. Lúc ấy Ngài được 30 tuổi.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 8. Ý Nghĩa Cao Cả Trong Sự Xuất Gia Tìm Ðạo Của Ðức Phật
Những chiến sĩ chiến thắng quân địch ở ngoài chiến trường, thường được ca tụng là anh hùng. Càng chiến thắng được nhiều quân địch càng được hoan hô là anh hùng cái thế. Nhưng những kẻ anh hùng cái thế ấy, như Nã Phá Luân, Thành Cát Tư Hãn, César…Đã có ai chiến thắng được dục vọng của chính mình? Cho nên thắng người đã khó mà thắng mình lại càng khó hơn.
Ðức Phật đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đã thắng được cả giặc Ma Vương lẫn giặc Dục Vọng. Ðức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Ðại Hùng, Ðại Lực. Ngài không phải vì quyền lợi riêng mình mà chiến đấu. Ngài chiến đấu vì tình thương. Mà tình thương ở đây cũng không phải chỉ nằm trong phạm vi hẹp hòi của gia đình: Thương cha mẹ, vợ con, bạn bè.
*
Tình thương ở đây là tình thương chúng sanh, tất cả cõi đời. Tình thương ấy nó rộng sâu như trời bể, thiết tha như tình mẹ thương con. Ðức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Ðại Từ, Ðại Bi. Lại tình thương ấy, Ngài đã hoan hỷ lìa bỏ ngôi báu cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa đẹp. Lìa mùi ngon vị lạ để sống một cuộc đời kham khổ, đạm bạc, thiếu thốn, giữa rừng thiêng nước độc.
Và một khi đã rời bỏ những thứ mà người đời cho là quý báu nói trên, Ngài không một phút giây nào hối tiếc, muốn quay về để hưởng thụ lại. Bằng cớ là Ma Vương đã sai con gái mình giả làm nàng Da Du đến kêu gọi van xin Ngài trở về cung, mà Ngài cũng không chút động tâm thối chuyển.
Ngài xứng đáng với danh hiệu là Ðại Hỷ, Ðại Xả. Cho nên ngày nay, mỗi khi xưng tán danh hiệu Ngài, chúng ta không thể không suy gẫm cái ý nghĩa sâu sắc và đúng đắn mà người đời từ xưa đến nay đã tôn xưng: Ngài là Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 9. Kết thúc giai đoạn 1
Chúng ta đã được biết qua đời sống của Ðức Phật từ khi sơ sinh cho đến thành đạo. Bài học của đời Ngài dạy cho chúng ta nhiều ý nghĩa, nhiều phương diện quý báu. Nhưng điều quý báu nhất đối với những kẻ sơ cơ như chúng ta là phải phát tâm Bồ Ðề rộng lớn. Nguyện vì đời, vì đồng bào, đồng loại mà tu hành; Chứ không phải chỉ vì lợi ích riêng cho mỗi cá nhân chúng ta.
Chúng ta lại phải phát tâm dõng mãnh, tích cực trong sự tu hành; Một khi vào đường đạo, thì dù gặp nguy nan, hiểm trở khó khăn cũng nhất quyết không thối lui quay gót. Chúng ta phải tập cho được cái đức kiên trì như Ðức Phật khi ngồi thiền định dưới gốc Bồ Ðề. Ðược như vậy mới xứng đáng là “chân chánh Phật tử”.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Giai đoạn 2
Từ thành Phật cho đến lúc Nhập Niết Bàn
Như trên chúng ta đã thấy Ðức Phật Thích Ca vì một đại nguyện lớn lao, vì một lòng từ bi vô bờ bến mà xuất gia tìm Ðạo. Ðại nguyện và lòng từ bi lớn lao ấy là: “Cầu thành Phật quả để trên đền đáp bốn ơn sâu, dưới cứu vớt ba đường khổ”.
Cho nên sau khi giác ngộ, Ngài không vội nhập Niết bàn, mà nghĩ ngay đến sứ mạng của Ngài là: Thay thế chư phật đời trước, tiếp tục chuyển mê khai ngộ cho tất cả mọi người. Sứ mạng ấy Ngài biết trước không phải dễ dàng. Vì cái Ðạo của Ngài thì cao thâm huyền diệu, mà chúng sanh căn cơ lại không đều, và từ muôn kiếp đã lặn hụp trong si mê lầm lạc, khó có thể nhận hiểu được ngay ý nghĩa cao thâm của Giáo lý Ngài.
Chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp quen sống trong bóng tối của si mê. Ngày nay chắc không khỏi loá mắt, hoảng sợ khi tiếp xúc với ánh sáng bừng chói của trí tuệ. Nhưng Ngài xét biết rằng mặc dù sống trong tăm tối, nhưng mỗi chúng sanh đều có mầm Phật tánh. Như hoa sen, mặc dù sống trong bùn tanh hôi, nhưng vẫn tỏa nhụy vàng thơm ngát. Ngài cương quyết thực hiện sứ mạng của mình.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 10. Sự Hóa Ðộ Rộng Lớn Và Cùng Khắp Của Ðức Phật
Sứ mạng hóa độ của Ðức Phật, như chúng ta đã biết, thật nặng nề và khó khăn. Nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, lòng từ bi rộng sâu. Nhờ tinh thần bình đẳng triệt để và nhờ ý chí dũng mãnh không thối chuyển, mà Ðức Phật đã hoàn thành sứ mạng của mình một cách viên mãn. Trong khi hóa độ, Ngài đã dựa theo ba nguyên tắc sau đây:
1. Hóa độ theo thứ lớp căn cơ.
Khi bắt đầu đi truyền Ðạo, ý nghĩ trước tiên của Ngài là đến vườn Lộc Uyển tìm mấy người bạn đồng tu với Ngài trước kia để thuyết pháp. Mấy người bạn ấy là các ông: Kiều Trần Như, Bà- Sư- Ba, Thập Lực, Ma Ha Nam và Bạc Ðề. Bài thuyết pháp đầu tiên ấy là Tứ-diệu-đế. Năm vị nầy đều được khai ngộ, và trở thành 5 đệ tử đầu tiên của Phật.
Kế đó Phật thuyết luôn ba tháng cho 55 người Bà-la-môn, đứng đầu là ông Da-Xá. 55 người nầy đều xin quy y theo Phật, và hợp với 5 người trong nhóm ông Kiều Trần Như thành 60 đệ tử. 60 đệ tử này sau khi giữ đúng giới luật, được Phật thọ ký cho đi truyền Ðạo khắp nơi.
Ðức Phật rời vườn Lộc uyển đi về phía Nam đến xứ Ưu lầu tần loa. Ngài hàng phục một vị tổ sư rất có uy tín của Ðạo Thờ Lửa là ông Ma-ha Ca-Diếp và hai người em của Ông. Ông Ca-Diếp mang tất cả đồ đệ của mình là 1,250 vị, xin quy y theo Phật. Nhớ lại lời hẹn xưa với vua Tần-bà-xa-la, Ngài đến xứ Ma kiệt đà vào thành Vương xá để độ cho vua. Vua Tần bà xa la gặp lại Ngài, vui mừng khôn xiết. Vua truyền xây cất tịnh xá Trúc lâm, để thỉnh Phật và chư Tăng ở lại thuyết Pháp độ sanh.
* Cuộc đời đức Phật *
Trong lúc Phật ở tịnh xá Trúc lâm, thì vua Tịnh-Phạn nghe tin Ngài đã thành Phật, truyền sứ-giả đi thỉnh Ngài về thành Ca tỳ la vệ. Nhưng 9 lần 9 sứ giả đi đều biệt tăm, không trở lại. Thì ra những người này khi đến Trúc lâm tịnh xá nghe Phật thuyết pháp, đã say mê quên sứ mạng của mình và xin thọ giới xuất gia.
Lần thứ 10, Tịnh Phạn-vương sai một cận thần thân tín là Ưu-Ðà-Di, mới thỉnh được Phật về. Trên đường từ thành Vương xá trở về Ca tỳ la vệ, Ðức Phật đã thuyết pháp độ cho không biết bao nhiêu người.
Về thành Ca tỳ la vệ, Ngài ở lại 7 ngày. Mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi ấy, Ðức Phật đã cảm hóa tất cả dòng họ Thích và tất cả những người trong dòng họ này đều xin quy y và một số lớn xin xuất gia theo Phật, như các ông: Nan-Ðà, A-Nan-Ðà, A-Nậu-Lâu-Ðà, La-Hầu-La…
Sau khi trở về thăm gia đình và quê hương, Ðức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Ðạo. Ngài đi đến thành Xá-Vệ là kinh đô nước Kiều tát la, thuộc quyền thống trị của vua Ba-tư-Nặc. Ở thành này có một vị đại thần tên là Tu-Ðạt-Ða. Ông này giàu lòng bố thí cho những kẻ bần cùng côi cút, nên được gọi danh hiệu là Trưởng giả cấp cô độc.
*
Ông rất ngưỡng mộ Ðức Phật nên đã trút hết tất cả tiền của vàng bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của Thái tử Kỳ Ðà để làm tịnh xá cho Phật và đệ tử của Ngài ở, thuyết pháp độ sanh. Ðược ít lâu nghe tin vua Tịnh-Phạn đau nặng, sắp băng hà, Ðức Phật vội trở về thăm cha lần cuối cùng. Thấy phụ thân buồn rầu trên giường bịnh, Phật thuyết về “Lẽ vô-thường, khổ, không, vô ngã” cho vua nghe. Nghe xong ,vua liền dứt phiền não, gương mặt vui tươi. Ông cất tiếng niệm Phật, rồi băng hà một cách êm ái.
Sau khi Tịnh-Phạn-Vương mất. Bà mẹ nuôi của Phật là Ma Ha Ba Xà Ba Ðề và bà Da Du Ðà La cùng nhiều người bên nữ giói họ Thích xin được phép xuất gia. Từ đó trong Ðạo Phật lần đầu tiên có hàng Tỳ Kheo Ni. Ðức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Ðạo, đi đến đâu Ngài cũng được sùng mộ, tin theo. Nhiều người noi theo gương của ông Cấp Cô Ðộc lập Tịnh Xá, cất giảng đường để Ngài thuyết pháp độ sanh.
Như thế chúng ta thấy Ðức Phật đã tuần tự hóa độ và kết nạp đệ tử. Từ những hạn người đủ căn trí dễ hiểu thấu giáo lý của Ngài rồi mới rộng ra những người khác; Lập Tỳ Kheo trước rồi Tỳ Kheo Ni sau.
2- Hóa độ tùy phương tiện.
Trong suốt thời gian đi thuyết pháp độ sanh, lắm khi Ðức Phật cũng gặp nhiều cảnh gay go trái ngược; Do lòng đố kị của ngoại đạo, tà giáo, hay lòng ganh ghét của nội thân quyến thuộc gây ra. Nhưng lúc nào Ngài cũng tuỳ phương tiện để cảm hóa và đưa họ về đường ngay lẽ phải.
Chẳng hạn, khi thì Ngài bị cô gái con ngoại đạo độn bụng giả có chửa đến giữa Ðạo tràng để vu oan cho Ngài; Khi thì Ngài bị anh chàng Vô Não đuổi theo quyết giết Ngài để lấy ngón tay góp thêm cho đủ số một ngàn ngón. Vì theo thuyết tà đạo, nó tin rằng có làm được như thế mới chứng quả; Khi thì Phật bị Ðề Bà Ðạt Ða, người em họ hung ác, âm mưu hãm hại Phật bằng cách thả voi say cho chạy đến chà đạp Phật; Hoặc ông ta lăn đá to từ trên núi xuống đè Phật.
Nhưng tất cả những âm mưu ấy đều vô hiệu quả, vì oai đức uy danh và trí huệ của Phật bao bọc Phật. Không một hành động xấu xa nào có thể thắng Phật được. Ngài có đủ phương tiện khôn ngoan khéo léo, xoay chiều đổi hương dễ dàng; Hoán cải được tất cả nghịch cảnh trở thành thuận lợi.
*
Và cuối cùng kẻ khinh ghét Ngài trở lại kính mến Ngài; Người chống ngài trở lại phục Ngài; Kẻ ngoại đạo trở thành phật tử. Bằng chứng là: Ðế Bà Ðạt Ða cũng được Phật thọ ký; Anh chàng Vô Não cũng được quy y; Bầy voi say cũng được sám hối; Vua A Xà Thế cũng hối cải và quay về đường ngay. Nói tóm lại: Ðức Phật có đủ muôn ngàn phương tiện thích ứng với mọi người, mọi vật, mọi hoàn cảnh. Để hóa độ tất cả những ai mà Ngài gặp trên đường truyền Ðạo của Ngài.
Không phải chỉ ở ngoài đời, mà trong Giáo hội của Ngài; Ngài cũng tuỳ theo căn cơ, tâm lý của mỗi đệ tử mà áp dụng phương pháp thích hợp. Chẳng hạn như đối với ông Nan Ðà: Mặc dù thân đã xuất gia, mà tâm vẫn muốn ngao du, luyến ái bạn bè. Ngài dùng thần thông để đưa ông lên cõi trời xem những cảnh sống tốt đẹp, vui thú khác thường; Rồi đưa ông xuống địa ngục mục kích những hình phạt đau đớn, rùng rợn hãi hùng. Để ông so sánh hai cảnh trái ngược nhau mà tự chọn lấy một đường.
*
Còn đối với ông A-Nan, người học rộng nghe nhiều, nhưng vì nghiệp duyên còn nặng, nên mắc nạn “Ma Ðăng Già”. Phật lại đem giáo lý thâm sâu là Kinh Lăng Nghiêm ra giảng dạy để cho ông A-Nan. Giúp ông thấy rõ được cái quý giá của chân tâm mà lo tu luyện, chứ không rong ruổi theo giả cảnh nữa.
Xem như thế thì Ðức Phật đã dùng phương tiện để tùy duyên hóa độ. Như ông lương y giỏi tùy bịnh cho thuốc, chứ không nhất thiết phải theo một đường lối cố định nào. Ðối với kẻ thân, người thù; Đối với kẻ thông minh hay người ngu độn; Đối với kẻ giàu, người nghèo… Ngài đều có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và quy y theo Ngài.
3 – Hóa độ theo tinh thần bình đẳng.
Tinh thần triệt để bình đẳng là một điểm son quý giá nhật trong giáo lý của Ðức Phật, cũng như trong tâm hồn Ngài. Ngay từ khi còn ấu thơ, tinh thần ấy đã được bộc lộ trong những cử chỉ cứu giúp những kẻ bần cùng, những con vật lâm nạn, như chúng ta đã thấy trong bài trước.
Khi thành Ðạo, tinh thần bình đẳng ấy lại bộc lộ rõ ràng hơn nữa. Ngài đã có những câu nói bất hủ, khiến cho ngày nay, người ta vẫn đem ra làm khuôn vàng thước ngọc. Như khi Ngài xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện nhất Ấn Độ. Người nầy sợ làm lây ô uế cho Ngài, thì Ngài bảo: “Không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn. Mỗi người sanh ra đều có Phật tánh và có thể thành Phật”.
Trong Giáo hội của Ngài, Ngài nhận cả những người thuộc giai cấp hạ tiện. Như ông Ưu Ba Ly, một đệ tử của Ngài có tiếng tăm về giới luật, lại là một người thuộc giới hạ tiện. Chiên đà la, làm nghề gánh phẩn. Sự thâu nhập ấy đã làm cho các vị vua chúa bất mãn.
*
Chính vua Ba Tư Nặc đã bạch Phật: “Ðấng Chí Tôn thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng Tăng Ðoàn như vậy, không ngại rằng đá sỏi lẫn lộn với châu ngọc, làm mất giá trị của chúng Tăng sao?”
Phật dạy rằng: “Người hèn hạ mà biết phát tâm Bồ Ðề, xuất gia tu hành, chứng được quả Thánh, thì quý báu vô cùng. Chẳng khác gì hoa sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết thơm tho”. “Một người sanh ra không phải liền thành Bà la môn (giai cấp trên hết) hay Chiên đà la (giai cấp thấp nhất). Mà chính vì sở hành của người ấy, tạo thành Chiên đà la hay Bà la môn”.
Ngài xâu giùm kim cho người mù. Hoan hỷ nhận hòn đất sét mà đứa bé đã nắn để dâng Ngài. Thọ lãnh bữa cơm cuối cùng do người thợ đốt than nghèo nàn dâng cúng. Chính vì sự hóa độ bình đẳng như thế, mà kinh Ðại Niết Bàn đã tán thán:
*
“Ðức Như Lai không chỉ thuyết pháp cho hạng người quyền quý như vua Bạc Ðề Ca, mà cũng thuyết pháp cho hạng người bần cùng như ông Ưu Ba Ly; Không riêng thọ lãnh sự cúng dường của những người giàu có như ông Tu Ðạt Ða, mà cũng thọ lãnh sự cúng dường của các hạng nghèo khổ như ông Thuần Ðà; Không riêng cho phép xuất gia các hạn không có tánh tham như Ngài Ca Diếp, mà cũng cho phép xuất gia những người có nhiều tánh tham như ông Nan Ðà;
Không những thuyết pháp cho hạng người an tịnh không dự việc đời, mà cũng thuyết pháp cho vua Tần Bà Sa La trong lúc đang bận rộn việc nước; Không những thuyết pháp cho hạng thanh niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết pháp cho ông già 80 tuổi; Không những thuyết pháp cho bà hoàng hậu Mạt Li, mà cũng thuyết pháp cho dâm nữ Liên Hoa”.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 11. Năm Thời Kỳ Nói Kinh
Tóm lại, trong cuộc đời Ðức Phật, tùy theo trình độ của mọi người mà thuyết pháp giáo hóa. Mãi đến khi Ngài nhập diệt, cộng là 49 năm. Những Kinh Pháp của Ngài nói ra, về sau các đệ tử kết tập chia ra làm năm thời:
1.Thời thứ nhất nói Kinh Hoa-Nghiêm
Khi Phật mới thành Ðạo, ở tại cội Bồ Ðề, nói KINH HOA NGHIÊM 21 ngày. Vạch rõ chân tánh, chỉ bày chỗ cao sâu mầu nhiệm của Ðạo Phật, chủ đích có hai điều:
- Dẫn dắt các bậc Bồ tát lên địa vị Ðẳng giác và Diệu giác.
- Nêu bày giáo pháp rốt ráo của Như Lai, chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ mà thôi; Ngoài ra hàng nhị thừa ngồi nghe nhu đui, như điếc; Huống chi ngoại đạo, tà giáo, làm sao hiểu nổi!
Ðức Phật trình bày giáo pháp siêu việt tuyệt vời ấy, là muốn cho đại chúng phải tu theo Ðại thừa Phật giáo mới được hoàn toàn rốt ráo.
2.Thời thứ hai Phật nói Kinh A-Hàm
Biết rằng: “Muốn đi xa phải do nơi gần, muốn lên cao phải từ nơi thấp”. Ðức Thích Ca y theo chư Phật mà nói pháp Tam thừa. Vì vậy thời thứ hai, Ngài nói Kinh A Hàm trọn 12 năm. Dùng thí dụ thực tế, chỉ rõ chân lý cho hàng Tiểu thừa dễ nhận, mà lo bề tự tu và tự độ.
3.Thời thứ ba Phật nói Kinh Phương Ðẳng.
Ðạo Phật chẳng những dạy pháp giác ngộ phần mình mà Ngài còn chỉ bày phương pháp giác tha. Tức là khuyến khích từ cái giác ngộ tiêu cực nhỏ hẹp của Tiểu thừa (A la Hán); Để tiến lên cái giác ngộ tích cực bao la của Ðại thừa Phật giáo. Ấy là thời nói Kinh phương Ðẳng trọn 8 năm, dẫn dắt Tiểu thừa qua Ðại thừa.
4.Thời thứ tư Phật nói Kinh Bát Nhã.
Ðến khi Ðức Phật xem căn cơ của chúng sanh có thể tiến lên một từng cao nữa là hấp thụ được hoàn toàn giáo pháp Ðại thừa. Ngài chỉ bày Ðạo lý chân không của Vũ trụ. Thuyết minh cái thật tướng, vô tướng của các pháp. Ấy là thời kỳ nói Kinh Bát Nhã trọn 22 năm.
5.Thời thứ năm Phật nói Kinh Pháp Hoa và Niết Bàn.
Sự hóa độ một đời của Ðức Phật gần viên mãn; Thêm thấy căn cơ của chúng sanh đã thuần thục, có thể gánh vác Ðại thừa Chánh pháp của Như Lai. Ngài bèn nói rõ bản hoài của Ngài thị hiện ra đời là vì một nguyên nhân lớn: “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Ngài phó chúc, thọ ký cho các hàng đệ tử, tương lai sẽ thành Phật. Ấy là thời nói Kinh Pháp Hoa và Kinh Niết Bàn trọn 8 năm. Ðến đây nhiệm vụ thuyết pháp độ sanh của đời Ngài đã viên mãn.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 12. Sự Hóa Ðộ Viên Mãn
Từ khi thành Ðạo dưới gốc cây Bồ Ðề cho đến ngày nhập diệt. Trải qua một thời gian 49 năm, Ðức Phật đã đi khắp xứ Ấn Độ rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác. Hễ chỗ nào có chân Ngài đến là Ánh Ðạo Vàng bừng tỏa huy hoàng.
Mỗi ngày Ngài theo một thời dụng biểu, một chương trình nhất định, không bao giờ xao lãng, giải đãi. Từ khi trẻ cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng.
Mỗi ngày khi trời chưa sáng, Ngài đã lìa khỏi giường đi tắm rửa; Thay đổi y phục rồi vào phòng quán cơ cho đến lúc mặt trời xuất hiện. Sau đó Ngài thuyết pháp cho chúng Tăng đến lúc trưa mới nghỉ để thụ trai. Buổi chiều, Ngài thuyết pháp cho Tín đồ các vùng lân cận đến nghe; Rồi lại giảng giải những nghi vấn của các Tăng về những vấn đề mà Ngài đã thuyết pháp buổi sáng.
Mỗi năm, Ngài đi chu du để thuyết pháp độ sanh trong 9 tháng nắng ráo; Còn ba tháng về mùa hạ có mưa lớn (theo thời tiết Ấn Độ), thì Ngài lại ở luôn trong Tịnh xá để an cư kiết hạ.
*
Ròng rã trong 49 năm như thế, hạt giống Từ bi được Ngài tinh tấn gieo rắc khắp các xứ ở Ấn Độ. Từ Bắc chí Nam, từ Ðông sang Tây, từ rừng rú đến đồng bằng. Không nơi nào là Ngài không đặt chân đến, hay truyền đệ tử đến thay Ngài để hóa độ chúng sanh. Và ở đâu Ngài và các đệ tử cũng được từ vua đến dân, từ giàu đến nghèo; Từ già đến trẻ, từ phái nam đến phái nữ, đổ xô ra đón tiếp Ngài; Vui thú đươc tắm gội trong ánh nắng trí huệ và nước Từ bi do Ngài tưới xuống.
Ở đâu có Ánh Ðạo vàng đến, thì Tà giáo và ngoại giáo lui xa dần, tan biến như những làn mây, như những bóng tối, tan biến trước ánh bình minh đang lên. Giọng thuyết pháp của Ngài có oai lực như tiếng sư tử rống, làm cho cầm thú phải khiếp phục. Như tiếng Hải triều lên, lấn ác tất cả bao nhiêu tiếng tỉ tê của côn trùng, chim chóc.
Ðạo Bồ Ðề từ đây đã ăn sâu gốc rễ trên bán đảo Ấn Độ bao la, và trở thành tôn giáo chính của các nước lớn, nhỏ thời bấy giờ tại Ấn Độ. Ðức Phật sau khi đã tự giác, đã giác tha và đến đây giác hạnh của Ngài đã viên mãn.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: 13. Nhập Niết bàn
1. Phật báo tin nhập Niết Bàn
Khi giác hạnh đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Ðến đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi, yếu già. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng Sa La trong xứ Câu Ly, cách thành Ba la nại chừng 120 dặm.
Một hôm Ngài gọi ông A nan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo:
“A Nan! Ðạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và Ðạo ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân hình ta, theo luật vô tường, bây giờ như một cỗ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở pháp, nay xe đã vừa mòn mà pháp cũng đã lan khắp nơi. Vậy ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy này nữa? A Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn”.
Tin Ðức Phật sắp vào Niết bàn, lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử của Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối.
*
Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài. Ðức Phật vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền Ðạo. Một hôm Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần Ðà, thỉnh Ngài về nhà để thọ trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ tử theo ông về.
Ðến nhà ông Thuần Ðà dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm Chiên đàn. Nấm này thường gọi là nấm heo rừng, vì giống nấm này rất được giống heo rừng ưa thích.
Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử từ giã ông Thuần Ðà ra đi. Ðược một quãng đường, Ngài giao bình bát cho ông A Nan và truyền treo võng lên, trong rừng cây Sa la (Tàu dịch là cây song thọ, cây có hai nhánh lớn chia ra như hai cái nạn), để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống võng đầu trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phía tay phải, mặt xây về hướng mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau.
Nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông. Trong số ấy có một ông già ngoài 80 tuổi, tên Tu Bạc Ðà La đến xin xuất gia thọ giới Sa di với Ngài. Ngài hoan hỷ nhận lời. Ðó là người đệ tử chót trong đời Ngài.
2- Phật nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc
Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca-Diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa về kịp. Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một lần cuối. Ngài phó chúc như sau:
- Y, bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma-Ha Ca-Diếp.
- Các đệ tử phải lấy giới luật làm Thầy.
- Ở đầu các Kinh phải nên nêu 4 chữ: “Như thị ngã văn”.
- Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba phần: Một phần cho Thiên cung. Một phần cho Long cung. Một phần chia cho 8 vị Quốc vương ở Ấn Ðộ.
Sau đây là lời vàng ngọc mà Ngài đã để lại trong giờ phút cuối cùng.
“Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..”.
“Này! Các người đừng vì dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Chỉ có chân lý của Ðạo ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tiến lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!”.
*
Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày rằm tháng hai Âm Lịch (theo giáo sử Trung hoa). Rừng cây Sa la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài; Trời đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn vật như chìm lặng trong giây phút nặng nề của sự chia ly.
Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vào trong kim quan và 7 ngày sau, đưa kim quan Ngài vào thành Câu thi để tại chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu). Tám vị Quốc vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tương dũng đến toan tranh dành Xá Lợi. Nhưng ông Hương-Tích y theo di chúc của Phật, đứng ra điều đình, và nhờ thế việc phân chia Xá Lợi đều được ổn thỏa.
Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Lời Kết
Ðức Phật đã nhập Niết Bàn, nhưng gương sáng của đời Ngài vẫn còn chiếu sáng rực rỡ trước mắt chúng ta. Suốt cuộc đời đức Phật, trong 80 năm, không một lúc nào Ngài xao lãng mục đích tối thượng là hóa độ chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ.
Khi còn tại gia, Ngài là người ở trong một địa vị có diễm phúc nhất, cao nhất của người đời. Thế mà Ngài vẫn không màng tưởng đến; Khi vào trong Ðạo, Ngài là người ở trong địa vị cao chót vót của Ðạo, thế mà Ngài vẫn không chịu ở yên trong địa vị ấy; Lại vất vả ruổi rong trên mọi nẻo đường buị bặm, gai góc để đưa chúng sanh lên con đường hạnh phúc an vui và giải thoát hoàn toàn. Lòng từ bi của Ðức Phật thật vô biên.
1- Người đời nên noi gương sáng của Phật.
Sự hy sinh cao cả, lòng từ bi rộng lớn, trí tuệ sáng suốt, ý chí dũng mãnh của Ngài không những là gương sáng cho riêng hàng Phật tử, mà còn cho tất cả mọi người. Nếu chúng ta quang niệm Ngài là một vĩ nhân của nhân loại từ xưa đến nay. Nếu chúng ta quan niệm Ngài là một bậc siêu nhân, thì đó là một bậc siêu nhân cao hơn những bậc siêu nhân khác.
Nếu ta quan niệm đời Ngài là một sự thị hiện của Phật, thì đó là sự thị hiện đẹp đẽ nhất và đầy đủ ý nghĩa hơn hết trong các sự thị hiện. Cho nên không những đối với Tín đồ Phật giáo, mà đối với toàn thể nhân loại, Ðức Phật đáng được tôn sùng và chiêm ngưỡng.
2- Tín đồ nên ghi nhớ những lời di chúc của Phật
Chúng ta, những Phật tử, ai cũng biết cuộc đời Ðức Phật là đẹp đẽ, cao cả. Bài học của đời Ngài là quý báu, sâu xa. Nhưng nếu chúng ta không cố gắng học tập, thì bài học dù hay ho quý báu bao nhiêu cũng vô ích. Ðức Phật trước khi nhập diệt, đã dặn chúng ta một câu cuối cùng:
“Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có Ðạo ta là quý báu. Chỉ có chân lý của Ðạo ta là bất di bất dịch. HÃY TINH TẤN LÊN ÐỂ GIẢI THOÁT!”
Vậy thì diều kiện trọng yếu nhất để giải thoát là sự tinh tấn. Chúng ta đừng bao giờ quên điều kiện ấy trong khi tu hành.
(Cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni- Theo Phật học Phổ Thông)
Tuệ Tâm 2021.