A Tu La là một loài trong lục đạo luân hồi. Thân hình vô cùng to lớn. Nam xấu xí thô kệch nhưng nữ thì vô cùng xinh đẹp. A tu la là loại chúng sanh nhiều sân hận, đa số có hình tướng không đoan chánh. A tu la cũng gọi A tố lạc, dịch là Vô đoan chánh, Phi thiên. Hai danh từ nầy có nghĩa: Không xinh đẹp, có phước trời mà đức không bằng trời.
Trong Kinh luận có chỗ cho rằng loài A tu la do gây nhân hạ phẩm Thập thiện mà được sanh. Nhưng đó chỉ là nói riêng về một phương diện mà thôi, cho đến danh từ Phi thiên cũng như thế. Sự thật, phần chánh nhân là loài nầy do hay nóng giận, hiếu thắng, ưa tranh cãi mà được sanh.
- Cách trị bóng đè linh nghiệm nhất.
- Chư Thiên Thần là gì.
- Địa ngục là gì.
- Quỷ thần là gì.
- Thần linh là gì.
- 10 chuyện Tâm linh có thật.
- Cận tử nghiệp vô cùng đáng sợ.
Lược giảng về loài A Tu La
Về Loài này, Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng:
Tu-la tánh bạo,
Hữu phước vô quyền,
Háo dũng đấu lang,
Phù trầm nghiệp khiên.
Nghĩa là:
Tu-la tánh hung bạo.
Có phước, song không quyền.
Rất thích đánh đấu nhau.
Chìm nổi theo nghiệp dắt.
A-tu-la là tiếng Phạn dịch là vô đoan chính. Vô đoan chính nghĩa là xấu xí. Nam A-tu-la tướng mạo vô cùng xấu xí, ưa thích đấu tranh với kẻ khác. Nữ A-tu-la tướng mạo hết sức xinh đẹp, yêu thích đấu tranh bằng tình cảm, tức là dùng tánh đố kỵ ghen tuông, chướng ngại, vô minh, phiền não.
Tuy chúng sinh này làm thành một Pháp-giới, song bất luận ở đâu trong lục đạo, hễ có chúng sinh nào thích đấu tranh, nóng nảy dữ tợn vô cùng, chỉ thích chỉ huy kẻ khác chớ không chịu bị kẻ khác chỉ huy; chỉ thích cai quản kẻ khác mà không thích bị ai cai quản, thì đó đều là biểu hiện của A-tu-la. A-tu-la ở trong loài người thì phân ra loại ác loại thiện. Thiện A-tu-la chính là quân đội, binh tướng trong quốc gia.? A-tu-la tức là thứ giặc cướp, trộm cắp, kẻ thích đánh, thích giết người khác.
*
A-tu-la ở trên cõi trời thì ưa thích đánh nhau với thiên binh, thiên tướng. Suốt ngày chúng chỉ nghĩ cách đánh trời Ðế Thích để cướp bảo tòa, đoạt ngôi để lên làm Ðế Thích. Song le, tuy đánh nhau hoài nhưng bọn chúng luôn thua trận. Vì sao? Bởi vì tuy bọn họ ở trên trời hưởng phước song không có quyền hành gì. Do đó tuy đánh với thiên binh, thiên tướng mà rốt cuộc vẫn cứ thất bại.
Trong hàng súc sinh cũng có A-tu-la. Chúng thích chèn ép kẻ đồng loại hay những súc sinh khác, thí dụ như sài lang, cọp, sư tử… là những thứ thích ăn thịt súc sinh khác vì chúng có tánh tình A-tu-la. Rắn hay chim ưng cũng là thứ A-tu-la.
A-tu-la trong loài quỷ thì thích ăn hiếp loại quỷ khác. Quỷ cũng có loại thiện loại ác. Bọn ác quỷ thì không đếm xỉa tới phải trái gì cả. Xưa nay quỷ không bao giờ biết phải trái, nhưng bọn ác quỷ càng không biết đến phải trái hơn cả.
Tu-la tánh bạo: Tánh tình của A-tu-la rất tàn bạo. Hữu phước vô quyền: Chúng có phước của chư thiên, song không có quyền hành như chư thiên. Do đó chúng muốn tranh đoạt quyền lợi, song không thể tranh thắng đặng.
*
Các bạn hãy nhìn thế giới hiện nay: Một thế giới của A-tu-la. Ðâu đâu cũng toàn nói chuyện đấu tranh, đấu tranh. Ðấu tranh vì thứ này, tranh đấu vì thứ kia. Bạn đánh tôi ngã, tôi đẩy bạn rớt.
Phù trầm nghiệp khiên: Tùy theo nghiệp lực dẫn dắt đi theo nẻo nào thì chúng đi theo nẻo đó. Do đó, người tu hành phải tránh đấu tranh, tranh chấp với kẻ khác. Chớ nên háo thắng, thích tranh chấp. Chớ nên có tánh tình hung bạo dữ tợn. Vậy thì mình thoát ra bọn A-tu-la đấy.
Nói tóm lại, A-tu-la không hề nói tới chuyện phải trái. Bất luận với ai, chúng cũng thường nổi nóng. Nói cho rõ, thì trong chín Pháp-giới của chúng sinh, thì A-tu-la có mặt trong năm Pháp-giới rồi. Trong loại súc sinh, thì loài chim hay thú cũng có A-tu-la. Cá sấu là một loại A-tu-la ở trong nước.
Loài ngựa cũng có A-tu-la: thứ này mà ở trong bầy ngựa thì chúng quấy nhiễu lắm, do đó gọi là “Hại quần chi mã,” con ngựa phá bầy. Loài bò cũng có A-tu-la đó; bò này tức là tánh A-tu-la. Còn chó thì đúng là bọn A-tu-la. Do đó người nuôi chó, thường gần gũi với chó thì có thể tiêm nhiễm tính A-tu-la đó. Do đó hãy cẩn thận. Chớ nên chạy theo bọn A-tu-la!
A Tu La là gì
A tu la chia thành bốn bậc: Loài ở cõi trời thì giống trời. Loại ở cõi người thì giống người. Loài ở cõi quỷ thì giống quỷ. Loài ở cõi súc thì giống súc sanh. Vì họ không có chủng loại và trụ xứ nhất định, có thể nhiếp về các nẻo khác, nên trong kinh có chỗ chỉ gọi là ngũ đạo hoặc ngũ thú.
A tu la ở cõi trời cũng có cung điện thất bảo, sự ăn mặc tự nhiên hóa hiện như chư thiên. Nhưng do nhân sân hận họ có ba sự kiện kém hơn người, nên ở sau loài người:
- Dù loài nầy có ăn các món trân vị, song miếng sau rốt tự nhiên hóa ra bùn.
- Ở cõi trời mưa hoa hoặc châu báu, nơi cõi người mưa nước, cõi A tu la mưa xuống những binh khí dao gậy.
- Loài người tâm điềm tĩnh nên dễ thực hành theo chánh pháp của Như Lai. Loài A tu la tâm sôi nổi hơn thua, nên khó tu đạo giải thoát.
Hòa Thượng Tuyên Hóa bảo: “Có ba cảnh giới lành là: cõi trời, a-tu-la và cõi người. Có ba cảnh giới không lành là súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Bất kỳ quý vị tạo ra nghiệp gì, thì quý vị phải nhận chịu quả báo của việc ấy. Do không nhận ra được chân tâm bổn tánh, nên chấm dứt đời mình trong sáu nẻo luân hồi, dù không muốn vào đó mà cũng vẫn phải vào.
*
Cảnh giới a-tu-la có khi được xem như cảnh giới không lành. A-tu-la được gọi là những kẻ thích đánh nhau. Họ luôn luôn sẵn sàng cãi vã, nổi nóng với tất cả mọi người. A-tu-la (asuras) là tiếng Phạn, tiếng Hán dịch là vô thù( 無 酬) – không có rượu–cũng có nghĩa là tác bất đoan chính( 作不端正) là làm những việc không đúng đắn. A-tu-la vốn thích uống rượu, nhưng khi họ sống ở cõi trời họ không có rượu để uống. Còn nghĩa tác bất đoan chính, là có liên quan đến các vị a-tu-la nam, họ có thân hình xù xì, mặt mày xấu xí, môi sứt, răng vẩu. Nhưng a-tu-la nữ thì rất đẹp.
Ngọc hoàng Thượng đế một khi gặp a-tu-la nữ đẹp lộng lẫy như thế liền lấy làm vợ. Một hôm Ngọc hoàng Thượng đế tức Đế Thích, muốn đi nghe Đức Phật giảng kinh, ông ta có thể biến thành thân người để đến thế giới ta-bà này để nghe Đức Phật giảng kinh. Nhưng bà vợ a-tu-la đanh đá chua ngoa của ông ta lại nổi cơn ghen: “Ông chỉ được đến đó mỗi một ngày thôi. Chẳng biết loài yêu mỵ hay hồ ly tinh nào đã hớp hồn ông. Ông đang chạy theo con hồ ly tinh nào phải không?”
*
Bà ta buộc tội ông chồng léng phéng với một phụ nữ khác. Không chỉ phụ nữ ở thế gian là giới duy nhất biết ghen tuông với chồng của họ. Cuối cùng bà vợ của Đế thích quyết định tự mình theo dõi chồng để xem thử ông làm gì. Khi Đế thích vào trong pháp hội nghe kinh ông ta đảnh lễ cung kính Pháp sư rồi tìm chỗ ngồi.
Thật tình cờ, hôm ấy có một người phụ nữ ngồi bên cạnh Đế thích. Khi người vợ a-tu-la thấy vậy, bà ta liền hiện nguyên hình đối diện với Đế thích rồi ca thán: “Thảo nào ngày nào ông cũng đến đây kết bè bạn với đám phụ nữ này.”
Ngọc đế rất giận dữ: “Tôi đến đây để nghe giảng kinh, bà lại chen vào quấy rầy làm náo động cả đạo tràng. Bà gây chướng ngại thật là trầm trọng.”
Nói xong Ngọc đế đánh bạt tai vào bà ta, bà ta khóc chạy đi tìm cha của mình, đòi ly dị và không trở về nhà chồng nữa. Cha bà ta liền bênh vực và hứa sẽ tiến hành cuộc chiến tranh với Ngọc đế. “Ta sẽ đánh bại hắn ta và chiếm ngôi.” Ông an ủi con mình “Đừng bận tâm gì cả!”
*
Chiến tranh xảy ra. Mỗi ngày vua a-tu-la đều đánh nhau với Ngọc hoàng. Ngọc hoàng trưng dụng hết biểu chương của mình (gồm vương miện, quả cầu và nghi trượng) nhưng lực lượng dữ dội hung bạo của a-tu-la chế ngự được cả ba thành phần này của Ngọc hoàng, dần dần Ngọc hoàng bị đánh bại, ông ta bị mất vị thế rất nhanh.
Là một Phật tử có tín tâm, Ngọc hoàng đến đảnh lễ Đức Phật cầu cứu. Đức Phật ban cho ông tấm y ca-sa và bảo ông: “Mang y ca-sa này về rồi cắt rọc ra thành từng giải băng nhỏ, phát cho mỗi người lính của ông một giải, ra lệnh họ cột vào cánh tay, rồi bảo họ đọc câu: “Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa”.
Ngọc Hoàng làm đúng như lời Phật dạy. Toàn bộ lính trời đều học thuộc lòng câu “Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa.”
Khi cuộc chiến kế tiếp xảy ra, vua a-tu-la bị lính trời đánh bại. Họ hoàn toàn không tiên liệu được sức mạnh của đạo quân trời như vũ bão, chấp nhận thua cuộc một lần và mãi mãi.
A-tu-la còn được gọi là “làm những việc không đúng đắn.” Họ có phước báu ở cõi trời, nhưng không có quả báo về đức hạnh. A-tu-la không những chỉ có trong cõi trời mà ở cõi nhân gian cũng có. Quân đội, thổ phỉ và trộm cướp là A-tu-la ở trong cõi người.
*
Nhưng ở đây phải có một sự phân biệt rõ. Ở quốc độ này (nước Mỹ) quân đội là một nghĩa vụ mà mọi người dân bắt buộc phải tham gia. Nên một số binh lính không phải là a-tu-la. Một số người này bị buộc vào quân đội lúc còn quá nhỏ tuổi. Mười tám tuổi họ đã phải vào lính, với lứa tuổi ấy, họ chưa có được một chút ít định lực nào cả. Chỉ nghe nói đến chiến tranh, họ đã hoảng sợ rồi.
Quân đội chiến đấu được huấn luyện năm năm, thông thường, họ được hai mươi ba tuổi nếu vào lính năm mười tám tuổi và được huấn luyện năm năm, với khoảng thời gian ấy, họ có một ít định lực và Kinh nghiệm, nếu ra chiến trường, họ cũng có được một ít can đảm để đối phó. Nếu họ quá trẻ, định lực chưa được mạnh, thiếu kinh nghiệm, không có được can đảm và quyết tâm.
Thế nên tôi nghĩ tình trạng quân đội hiện nay, không phải người lính nào cũng là a-tu-la. Thời xưa, ai mà thực sự muốn làm lính hoặc muốn làm thổ phỉ mới được liệt vào hàng a-tu-la. Ngoài binh lính thổ phỉ ra còn có một loại a-tu-la khác. Chẳng hạn những người có tính nóng nảy, luôn luôn xung đột với người khác, những người ấy cũng mang bản tính của a-tu-la. Nói chung, a-tu-la là những kẻ có tập khí nóng nảy. Ngựa hoang là một loại a-tu-la. Trong giới quỷ đói (ngạ quỷ) cũng có a-tula.”
Xứ sở của A Tu La ở đâu
Theo kinh Chánh Pháp Niệm: “A tu la cư trú tại năm chỗ:
- Một là tại trên mặt đất, trong núi Chúng Tướng. Sức lực của loài này yếu ớt nhất.
- Hai là tại phía Bắc núi Tu di, đi xuống biển hai vạn một ngàn do tuần, có A tu la tên là La Hầu thống lãnh đám A tu la.
- Ba là lại đi sâu xuống biển thêm hai vạn một ngàn do tuần, có A tu la tên là Tráng Kiện.
- Bốn là lại đi sâu xuống biển thêm hai vạn một ngàn do tuần, có A tu la tên là Tràng Hoa.
- Năm là lại đi sâu xuống biển thêm hai vạn một ngàn do tuần, có A tu la tên là Tỳ ma chất đa. Từ trong mình của A tu la này phát ra âm thanh rất lớn, xuyên suốt lên mặt biển, tự xưng: “Ta là A tu la Tỳ ma chất đa”.
Gieo nhân gì sanh về cõi A Tu La
Theo trong kinh Nghiệp Báo Sai Biệt có nói đầy đủ về mười nghiệp phải chịu quả báo làm A tu la:
- Một là thân làm các việc ác nhỏ.
- Hai là miệng làm các việc ác nhỏ.
- Ba là ý làm các việc ác nhỏ.
- Bốn là nổi lên kiêu mạn.
- Năm là nổi lên ngã mạn
- SSáu là nổi lên tăng thượng mạn.
- Bảy là nổi lên mạn lớn.
- Tám là nổi lên mạn tà.
- Chín là nổi lên mạn quá mạn.
- Mười là đem các thiện căn hồi hướng về đường A-tu-la.
Theo kinh Chánh Pháp Niệm diễn rộng. Chúng sanh phần nhiều do ba loại nghiện nhân sân, mạn và nghi nên chịu quả báo sinh vào đường ấy. Hơn nữa, kinh Tạp A hàm nói: “Vào thời tiền kiếp, A tu la từng làm người nghèo ở gần bên sông, thường vác củi qua sông. Bấy giờ, nước sông sâu lại chảy xiết. Người ấy mấy lần bị nước cuốn phăng đi sắp chết, may mắn thoát được.
Có vị Phật Bích Chi đến nhà khuất thực, người ấy vui vẻ cúng dường. Thọ thực xong, liền bay mất lên trời. Người nghèo khổ ấy thấy vậy, bèn phát tâm nguyện rằng: “Kiếp sau, xin cho thân thể của tôi lớn lao đến nỗi bất cứ dòng nước nào cũng không ngập quá đầu gối!”. Nhờ nhân duyên này, A tu la có được thân thể rất khổng lồ. Nước bốn biển lớn không ngập quá đầu gối. Đứng trong biển lớn, thân vượt lên khỏi núi Tu di. Chống tay vào đỉnh núi, khom mình xuống nhìn Trời Đao lợi”.
Cõi A Tu La như thế nào
Nếu theo kinh Chánh Pháp Niệm. Nhu cầu y phục, ăn uống của A tu la có sẵn tự nhiên. Mũ dải, áo quần thuần bằng bảy loại bảo vật đẹp đẽ, tinh khiết như chư Thiên. Các thức ăn, tùy theo ý thích mà hiện ra. Có đầy đủ vị ngon, không thua kém của chư Thiên.
Như các luận lớn nói. Y phục và thức ăn của A tu la tuy hơn người, nhưng khi ăn thì không bằng người. Nghĩa là, trong hết thảy mọi bữa ăn của A tu la, đến miếng cuối cùng, đều phải biến thành bùn xanh. Cũng như Long vương. Tuy ăn đủ trăm món, nhưng đến miếng cuối cùng, đều phải biến thành cóc nhái. Vì thế, kinh mới nói không bằng người.
A Tu La là loài ưa gây chiến
Kinh Trường A hàm nói: “Vì chúa A tu la có rất nhiều uy lực, nên suy nghĩ rằng: “Thiên vương Trời Đao lợi và các vua Mặt trời Mặt trăng cứ đi lại trên đầu ta hoài. Ta thề sẽ bắt vua Mặt trời Mặt trăng để làm đôi bông tai!”. Càng nghĩ, càng giận dữ muốn ra tay. Liền sai hai chúa A tu la Xá ma lê và Tỳ ma chất đa cùng các đại thần sửa soạn khí giới, kéo nhau đi đánh chư Thiên.
Bấy giờ, hai Long vương lớn là Nan đà và Bạt nan đà lấy thân mình quấn bảy vòng quanh núi chúa Tu di. Làm rung chuyển cả núi và kéo mây giăng, quẫy đuôi dậy sóng. Trời Đao lợi nói: “A tu la sắp gây chiến. Các Long vương, quỷ thần hãy cầm binh khí lần lượt giao phong, nếu thua mới bỏ chạy!”.
Bốn Thiên vương vũ trang chuẩn bị lâm chiến, vào báo động cùng Đế thích. Đế thích báo động lên Trời Tha hóa tự tại, cho đến vô số chư Thiên khác. Đế thích ra lệnh: “Nếu quân ta thắng, hãy lấy năm sợi dây trói chặt A tu la Tỳ ma chất đa giải về Thiện pháp đường. Ta muốn xem nó thế nào!”.
*
A tu la cũng nói: “Nếu bọn ta thắng, cũng lấy năm sợi dây thừng trói chặt Đế thích giải về Thất diệp đường. Ta muốn xem nó thế nào!”
Quyết chiến một trận, hai bên đều không bị thương, nhưng do thân thể va chạm nhau, gây ra đau đớn. Đế thích liền biến ra nghìn mắt, tay cầm chày kim cương, đầu phun ra khói lửa phừng phực. A tu la trông thấy bỏ chạy, Tỳ ma chất đa bị bắt trói giải về, trông thấy Đế thích, liền buông lời mắng nhiếc.
Đế thích liền trả lời: “Ta muốn cùng nhà ngươi nói chuyện đạo nghĩa, cần gì phải dùng lời thô lỗ? Nhà ngươi đã phá giới, đem ác tâm gây chiến. Dù đã tu nhiều hạnh bố thí, nhưng vì kiêu mạn như thế, nên đành phải thọ lấy báo thân này”.
Chuyện về A Tu La
Sách Tây Quốc Chí nói: “Trong khe núi đá về phía Tây Nam nước Chiêm Bà ở Trung Ấn có hang của A tu la. Người nọ nhân lên núi tu hành, gặp hang ấy liền vào bên trong. Thấy cung điện của A tu la có các loài hoa tuyệt đẹp như trên thiên cung. Vườn tược ao hồ, cây trái đủ thứ, không thể nào kể hết.
Bọn A tu la thấy người nọ đi một mình liền bảo: “Nhà ngươi có thể ở đây lâu không?”. Người nọ trả lời: “Tôi sắp về nhà, không thể ở lâu”. A tu la thấy không ở lâu, bèn đưa cho một trái đào, ăn xong mới nói: “Nhà ngươi nên đi ra thật nhanh, sợ thân hình hóa lớn, hang không chứa nổi!”. Nghe dứt lời ấy, người nọ vội vàng chạy ra. Nhưng thân thể bỗng nhiên hóa lớn, tướng mạo trở thành thô tháp. Đầu vừa chui khỏi, thân hình quá lớn đã lấp kín miệng hang. Bị mắc kẹt lại, không tài nào chui hết ra được.
*
Từ đó về sau, gần mấy trăm năm, chỉ thấy ló ra cái đầu lớn như cái lu chứa ba tạ. Có người trông thấy, hỏi chuyện. Người nọ kể rõ nhân duyên. Người ấy thương quá, nói rằng: “Bọn tôi sẽ đào đá cho thân ông chui ra, liệu có được chăng?”. Đáp rằng: “Ơn đức biết mấy!”. Ngưới ấy đem câu chuyện và ý kiến tâu rõ lên nhà vua. Vua tôi cùng nhau bàn luận: “Đấy là kẻ phi phàm, sức địch ngàn người. Nay đào đá giúp cho chui ra, lỡ có ý đồ không tốt, ai có thể chống nổi?”.
Vì thế, vẫn để yên như cũ. Người đương thời gọi là Ông tiên to đầu. Sứ giả nhà Đường là Vương Huyền Sách đã ba lần đến đó. Lấy tay sờ đầu, cùng nhau nói chuyện vanh vách rõ ràng. Gần đây, có lửa trong núi bốc cháy sém đen cả đầu, nhưng không chết”.
Tây Quốc Chí gồm sáu mươi quyển, do triều đình soạn thuật. Nhà vua xuống sắc sai các họa sĩ vẽ tranh minh họa. Còn lại bốn mươi quyển, bắt đầu làm từ năm Lân Đức thứ hai đến cuối mùa hạ năm Càn Phong nguyên niên mới hoàn thành. Ta gặp Vương Huyền Sách, được ông ấy đem chuyện này kể lại cho nghe.(Pháp uyển châu lâm)
Vào cung điện của A Tu La
Thanh Biện Luật sư, người xứ Tây Thiên Trúc, sức học uyên bác, rất thâm về vô tướng tông. Các ngoại đạo nghe danh, đến vấn nạn đều bị ngài dùng nghĩa không mà phá tất cả. Có một lần, luận sư gặp một nhà ngoại đạo nổi tiếng là giỏi. Hai bên tranh biện nhau hơn nửa ngày, ngoại đạo bị khuất lý mà vẫn cố chấp không chịu thua. Do đó, tự thân bỗng biến thành đá. Đến 6 tháng sau, nghe sấm nổ mới phục nguyên lại thành người như trước.
Về sau, ngài xem bộ luận về Hữu Tướng Tông của Hộ Pháp Đại Sư. Đem nghĩa học của mình đối chiếu vẫn không phá hoại được, mới than rằng: ‘Nếu không phải đức Di Lặc ra đời, thì ai giải quyết được mối nghi ngờ của ta?’ Nhân đó, ngài đến trước tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, tụng chú Đại Bi 3 năm. Một đêm, đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hiện sắc thân tốt đẹp đến hỏi: ‘Ngươi tụng chú để mong cầu điều chi?’ Luận sư đáp: ‘Con nguyện lưu trụ thân đợi đến lúc Từ Thị Như Lai ra đời để thưa hỏi về giáo nghĩa’.
*
Bồ Tát nói: ‘Thân người mong manh, cõi đời hư huyễn, sao không tu thắng hạnh cầu mong lên trời Đâu Suất, chẳng là mau gặp gỡ hơn ư?’ Ngài thưa: ‘Đức Di Lặc tuy hiện trụ nơi nội viện cung trời thứ tư, nhưng chưa thành Phật. Vì thế con muốn đợi đến lúc ngài hiện thành chánh giác nơi cõi nhơn gian. Chí con đã quyết định, không thể lay chuyển’. Bồ tát bảo: ‘Đã như thế, ngươi nên đi qua thành phía nam xứ Đại An Đạt La, thuộc về miền nam Thiên Trúc. Cách đó không xa, có một tòa sơn nham, chính là chỗ ở của thần Chấp Kim Cang. Sau khi đến nơi, ông nên đối trước sơn nham tụng chú Đại Bi, sẽ được toại nguyện’.
Luận sư vâng lời, đi đến nơi, hành trì như thế. Ba năm sau, thần hiện ra và hỏi: ‘Ông cầu nguyện điều chi?’ Đáp: Tôi vưng lời đức Quán Thế Âm Bồ Tát mách bảo, đến đây trì tụng. Nguyện lưu thân này sống mãi đợi đến khi Phật Di Lặc ra đời. Xin tôn thần cho tôi được thành tựu như ý muốn’. Chấp Kim Cang thần bảo: ‘Trong sơn nham này có cung điện của thần A Tu La. Ông nên gia trì chú Đại Bi trong hạt cải trắng, rồi liệng vào thì cửa đá sẽ mở. Sau khi ấy, ông nên đi thẳng vào trong, sẽ có phương tiện để cho ông trụ thân lâu dài mà chờ đợi’.
*
Luận sư hỏi: ‘Trong cung động, cách biệt ngoài trần, khi Phật ra đời làm sao tôi được biết?’ Thần nói: ‘Chừng ấy, tôi sẽ cho ông hay’. Ngài Thanh Biện lại y lời, tinh thành tụng chú trong hạt cải 3 năm, rồi liệng vào sơn nham. Bỗng thấy vách đá mở ra, trong ấy hào quang chiếu sáng. Lúc bấy giờ, có rất đông đại chúng tề tựu đến xem, bàn bàn luận luận quên cả trở về.
Luận sư tướng trạng an lành, buớc vào cửa đá, rồi day lại nói: ‘Tôi nguyện cầu đã lâu, muốn trụ thân này chờ đức Từ Thị ra đời. Nhờ sức thánh linh, bổn nguyện từ đây đã toại, vậy đại chúng nên theo tôi, để được ngày kia thấy Phật nghe pháp’. Trong chúng nghe nói sợ hãi, cho là hang loại độc long, đi vào chắc mất thân mạng.
Luận sư đôi ba phen gọi bảo, chỉ có 6 người chịu đi theo mà thôi. Ngài từ tạ rồi dẫn 6 người thong thả đi vào trong, cửa đá liền khép lại. Lúc ấy đại chúng ở ngoài thấy vậy hết sức hối tiếc, trách mình đã nghĩ nói lỗi lầm.
Kết duyên cùng A Tu la nữ
Nước Ma Già Đà xứ Tây Thiên Trúc, có một người phật tử tại gia, tánh ưa sắc đẹp. Một hôm, nhân xem kinh thấy nói hàng A Tu La, người nam tuy xấu, nhưng người nữ lại xinh tốt tuyệt bậc. Trong lòng sanh niệm mến thích, ước làm sao cùng được kết mối lương duyên. Không bao lâu, lại nghe nhiều vị bảo trong núi nọ có cung điện A Tu La rất nguy nga tráng lệ, báu lạ như thiên cung. Ông liền quyết tâm trì chú Đại Bi 3 năm, cầu mong được viếng cảnh mầu để thỏa lòng ước nguyện khi trước.
Ba năm đã mãn, người ấy từ tạ thân hữu, và gọi một tên đệ tử cùng đi theo. Khi thầy trò đi đến trước núi, chí tâm tụng chú cầu nguyện, bỗng cửa đá vụt mở, trong ấy lộ ra cung điện có quỷ thần canh giữ cực nghiêm. Vị phật tử liền bước đến nói rõ bổn nguyện của mình: Trì chú muốn kết duyên cùng thần nữ A Tu La, xin nhờ thông báo, và thỉnh ý giùm.
Kẻ giữ cửa vào thưa lại. A Tu La nữ nghe nói tỏ ý vui đẹp, hỏi: Đi đến có mấy người? Đáp: Thưa hai người. Thần nữ bảo: Ngươi ra thuật lại ý ta đã thuận. Thỉnh người trì chú mau vào, còn ông đồng bạn hãy tạm đứng ngoài cửa. Kẻ giữ cửa ra thưa lại, vị Phật tử liền đi vào trong.
*
Nhìn theo thầy mình đi rồi, người đệ tử còn đang bàng hoàng. Bất giác bỗng tự thấy đã trở về đứng ở phía nam của nhà mình hồi nào không hay. Từ ấy về sau, ông này đã mấy lần đến chỗ cũ, song chỉ thấy vách đá đứng sững. Mây khói mịt mù, không còn được nghe biết tin tức gì bên trong nữa. Nhân đó, người đệ tử phát tâm lìa nhà tu hành, nguyện trọn đời ở nơi già lam cúng dường ngôi Tam bảo.
Khi ngài Huyền Trang sang Ấn Độ du học, đến trụ ở chùa Na Lan Đà, nghe chính người đệ tử này thuật chuyện lại (trích Tây Quốc Chí).
( A Tu La là gì )
Tuệ Tâm 2020.