Ngũ giới là gì
Pháp Giới 11 tháng trước

Ngũ giới là gì

Ngũ giới của Phật giáo là năm điều răn cấm căn bản, được đức Phật Thích Ca đặt ra, nhằm giúp cho Phật tử không làm điều ác và ngăn ngừa phạm phải lỗi lầm. Năm điều răn cấm căn bản này là:

  1. Không giết hại.
  2. Không trộm cướp.
  3. Không tà dâm.
  4. Không vọng ngữ.
  5. Không uống rượu. 

Ngũ giới là nền tảng của các giới. Vì trong Bát giới, Thập giới, Cụ Giới và Bồ Tát giới cũng có năm giới căn bản ấy.  Một điều cực quan trọng khác của Ngũ giới là Giới Thần: Là các Tôn Thần phát nguyện hộ trì người giữ giới. Mỗi giới có 5 Giới Thần, nên người nào giữ được 5 giới thì có 25 vị Giới Thần ngày đêm theo hộ trì. Hạng ma quỷ tạp nhạp trong thế gian và các loại oan gia trái chủ không thể phá hoại người trì giới.

Trong năm giới trên, bốn giới trước thuộc về tánh giới, một điều uống rượu sau thuộc về tướng giới. Nói tánh giới, vì những giới nầy có liên quan đến tâm tánh: Như người phạm tà dâm tức nhiên trong tâm nặng về ái dục. Người phạm vọng ngữ tất nơi tâm có sự gian dối. Cho nên về tánh giới thì dù người có thọ giới hay không, nếu phạm cũng đều bị sa đọa.

Còn tướng giới là giới thuộc về hình thức phát thệ để ngăn ngừa sự phạm lỗi: Nếu có thọ mà phạm thì đắc tội, không thọ thì không đắc tội. Tuy nhiên, đây là nói người không thọ tửu giới chỉ uống rượu chút ít nên không mang tội phạm giới. Nếu không thọ giới rượu nhưng uống nhiều cũng gây nghiệp và bị sa đọa.

*
  • 10 Điều quan trọng Phật tử tại gia cần biết.
  • Thập thiện nghiệp là gì.
  • Tam giới là gì.
  • Âm đức là gì.
  • Thiên ma là loại ma gì.
  • 10 chuyện tâm linh có thật.
  • 10 chuyện nhân quả báo ứng có thật
Ngũ giới là gì
Ngũ giới là gì

Sự trọng yếu của Ngũ Giới cấm trong thời Mạt pháp

Hòa Thượng Tuyên Hóa bảo: “Dù hiện nay đang là thời kỳ Mạt pháp, nhưng các Phật tử nên phát khởi tinh thần và lập chí nguyện Kim Cang bất hoại của mình, ngõ hầu chuyển Mạt pháp thành Chánh pháp. Chúng ta nên làm một người Phật tử chân chánh. Nếu mọi người đều chân thật làm theo, tức sẽ chuyển được Mạt pháp thành Chánh pháp. Còn nếu tín đồ Phật Giáo không biết nhận thức, không thật tâm hành trì Phật Pháp, thế thì ngay cả Chánh pháp cũng sẽ chuyển thành Mạt pháp.

Vì sao vậy? Vì hễ người chánh thì pháp sẽ chánh, người nghiêng lệch thì pháp cũng sẽ nghiêng lệch. Người nghiêng lệch là người không đi theo con đường chánh lộ. Họ không giữ giới luật, nhưng lại đi tìm chỗ sơ hở của giới luật. Cũng giống như pháp luật là để duy trì an ninh cho xã hội, nhưng có một số người chuyên tìm kẻ hở của luật pháp để làm những việc phạm pháp. Như vậy ngay cả pháp luật cũng không còn tồn tại, cho nên thế giới mới bị ảnh hưởng mà bại hoại.

*

Thân là Phật tử, nếu chúng ta không thật lòng vì Phật giáo mà nỗ lực công tác và hy sinh, thế thì Phật giáo làm sao phát dương quảng đại cho được?

Chúng ta muốn phát dương Phật giáo, chứ không phải muốn học mấy bài chú, học có được thần thông, học Mật Tông, hoặc học những thứ kỳ quái lạ lùng, hoặc học quỷ nhập thân, lên đồng, hoặc học vẽ bùa, vẽ ngải. Cho nên điều trọng yếu nhất là phải học giới luật của Phật đã lưu lại. Nếu chúng ta có thể y theo giáo điều mà tu hành, vậy là Chánh pháp sẽ trụ thế.

Nếu ai nấy cũng không giữ giới luật của Phật thì đó là Mạt pháp. Vì “Nhất thiết duy tâm tạo,” tất cả đều do tâm tạo ra, cho nên pháp là ở ngay trong tâm con người. Tại sao con người lại đi đến thời kỳ Mạt pháp? Bởi vì nhiều người phạm giới, ít kẻ giữ giới; người biết giới luật thì nhiều, nhưng kẻ hiểu rõ giới luật thì ít, nên khiến người ta mơ hồ lẫn lộn. Quý vị bảo là người đó hiểu rõ, nhưng ông ta lại không hoàn toàn hiểu rõ. Nếu quý vị nói ông ta không hiểu rõ, nhưng ổng lại biết chút ít ở bề ngoài, chỉ hiểu lơ mơ một phần nào đó thôi.

*

Giới luật là gì? Là “chỉ ác phòng phi,” tức là dừng ác ngăn lỗi, là giúp chúng ta không làm mọi điều ác, và ngăn ngừa tất cả lỗi lầm. Cũng tức là “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,” không làm các việc ác, mà làm tất cả việc lành.

Mọi người đều hiểu Năm giới của Phật dạy là trọng yếu. Vả lại giới luật cũng có mối quan hệ thân thiết với mỗi cá nhân chúng ta. Nếu quý vị giữ quy củ, không phóng dật, buông lung tức là tự tánh của quý vị đang gia tăng thêm trí huệ. Giữ giới luật thì có thể phát sanh định, một khi sanh định tức là có trí huệ. Nếu không giữ giới thời không có định, mà hễ không định thì sẽ không có trí huệ.

Giữ giới ví như bầu trời quang đãng, vạn dặm không gợn mây. Nếu không giữ giới: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu, làm bậy nói càn, đó cũng ví như trên không trung đang trong sáng lại xuất hiện đám mây đen.

*

Hễ một khi mây đen xuất hiện thì nó sẽ che khuất mặt trời, vậy là quý vị sẽ không thấy được ánh sáng. Không thấy được ánh sáng quang minh, đó chính là đen tối hắc ám; mà hắc ám chính là ngu si vô minh. Đến nỗi mất cả thân người, rồi chui vào bụng heo làm heo, vào bụng trâu làm trâu, vào bụng ngựa làm ngựa. Đó đều là do những thành tựu khoa học, những thành quả của sự thí nghiệm trong công xưởng hóa học của tự tánh con người.

Người giữ giới là người thanh tịnh được tự tánh và quét sạch hết cái đen tối trong tự tánh. Người không giữ giới thời sẽ có trùng trùng vô tận những đám mây đen. Một ngày không giữ giới, là một ngày sanh thêm nhiều mây đen. Người không giữ giới, bởi tự tánh của họ đang sanh mây đen ô nhiễm. Nếu quý vị không giữ giới luật thì đâu phải là người khác bị thương, mà chính tự tánh của quý vị bị thương tổn đấy. Cho nên quý vị nhất định phải nghiêm trì giới luật. Quý vị có thể giữ giới được thì là Chánh pháp, còn không giữ  giới  tức  là  Mạt  pháp.”

Sự thiết yếu của Ngũ giới Phật giáo

Ðức Phật chế ra giới vốn y cứ trên tâm từ bi, trí huệ và bình đẳng. Mục đích đem lại an vui trật tự cho cá nhân, gia đình, xã hội và làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Ngài chỉ đưa ra lẽ phải cùng sự lợi hại, để mỗi người tự chọn lựa lấy, chứ không bắt buộc ai phải triệt để tuân theo. Đây cũng là đặc trưng của Phật giáo: Đức Phật không phải là một đấng uy quyền độc tôn, tự ý giữ phần thưởng phạt.

Bởi theo đạo Phật, một hành động, lời nói hoặc ý nghĩ tốt hay xấu, tự nó đã mang theo ảnh hưởng vui khổ, hay phần thưởng phạt rồi. Vì vậy Ðức Phật chỉ là một vị hướng dẫn sáng suốt, còn kết quả vui khổ chính ở nơi người biết chọn đường.

Ngũ giới tuy dường đơn sơ, nhưng nó lại là căn bản của các giới. Nếu người giữ tròn được Ngũ giới sẽ duy trì được thiện căn, không mất thân trời, người.

Khi còn là chúng sanh, ai cũng có sự mê mờ lầm lỗi. Ðể cho hàng Phật tử tránh sự mê lầm ấy, Ðức Thế Tôn tùy mỗi trình độ mà chế ra các giới. “Giới” là những điều răn cấm, mục đích ngăn ác hạnh, đưa chúng sanh đến chỗ an lành. Về Ngũ giới, sau khi quy y Tam bảo, mỗi người Phật tử tại gia đều phải thọ. Nếu chẳng vâng giữ thì nhân phẩm không toàn vẹn, kiếp sau phải mất thân người.

Ngũ giới của Phật giáo: 1.Không giết hại

Không giết hại hay không sát sanh là điều răn cấm thứ nhất của Ngũ giới. Đức Phật khuyên chúng ta không được giết hại sanh mạng, từ loài người cho đến loài vật. Phật giáo cấm sát sanh bởi những lý do:

Tôn trọng Phật tánh bình đẳng

Ðức Thế Tôn đã bảo: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật. Chân tánh đã bình đẳng thì chúng ta không nên cho rằng Phật tánh ở người có giá trị hơn ở vật, ở màu da này, giai cấp này, có giá trị hơn màu da kia, giai cấp kia. Cho nên giết hại một sanh mạng là giết hại một Đức Phật ở tương lai.

Tôn trọng sự công bình

Mọi loài đều biết ham sống sợ chết, trừ gặp cảnh cùng quẫn hay lý do quan trọng khác, nên mới phải quyên sinh. Chúng ta đã xem sanh mạng mình là quý, nếu ai mưu hại thì dùng đủ cách để tự bảo vệ, tại sao lại ỷ khôn mạnh mà giết loài ngu yếu để thỏa lòng căm tức hoặc cầu miếng thơm ngon? Việc mình không muốn lại đem ra đối xử với kẻ khác, loài khác, ấy là mất sự công bình. Vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, cho đến loài vật, chớ giết, chớ bảo giết.

Nuôi dưỡng lòng từ bi

Ðã là chúng sanh có tình thức thì loài nào cũng biết đau đớn, vui buồn. Một chuyện nhỏ nhặt như khi chúng ta đi lỡ vấp, tự có cảm giác đau đớn, và trong cảnh tử biệt sanh ly ai cũng thương buồn! Thế thì tại sao ta lại nhẫn tâm làm cho kẻ khác hoặc vật khác, trước khi tắt hơi thở phải rên siết trong lệ nóng, quằn quại trong máu đào, và chịu nỗi thương tiếc đau buồn trong cảnh sanh ly tử biệt? Một chút đau đớn chính mình còn khó kham chịu, lại gây cho chúng sanh nỗi thống khổ vô hạn, tức không có lòng từ bi, không xứng đáng là con của Phật.

Tránh nhân quả xấu ác

Khi ta giết một người, tất đã gây mối oán hờn với gia đình quyến thuộc họ. Trong lúc thế cô sức yếu, thân thích nạn nhân chỉ đành ôm hận, nhưng họ vẫn rình rập chờ cơ hội báo thù. Loài vật cũng vậy, nếu có thể báo oán nó không dung tha kẻ giết. Theo kinh Phật, kẻ giết hại lâu ngày thì nghiệp sát càng nặng, sau khi chết phải đọa vào Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, chịu vô lượng sự khổ. Ðến khi được thân người lại bị nhiều bịnh hoặc chết non. Cho nên càng sát hại, càng tăng thêm nghiệp khổ, mãi xoay vần trong nẻo luân hồi, không biết ngày nào được ra khỏi.

Trái lại, nếu người giữ giới không sát hại hoặc phóng sanh, thì sẽ được những quả báo như sau: Sắc lực đầy đủ, ít hay đau bịnh, thân tâm an ổn, mọi người yêu kính, thọ số lâu dài; Thường hưởng phước vui ở cõi trời hoặc cõi người.

Sự tai hại của sát sanh

Tất cả chúng sanh vì ưa giết hại, nên trong hiện đời bị ác sắc, ác lực, ác danh. Hoặc chết yểu, tài vật hao giảm, quyến thuộc chia lìa, hiền thánh quở trách. Hoặc người không tin dùng, kẻ khác làm tội mà mình mang họa. Ðó là nghiệp quả trong đời hiện tại. Lúc bỏ báo thân lại đọa vào Tam đồ, bị ác sắc, ác lực, ác danh, đói khát. Và chịu nhiều nỗi khổ sở, mạng sống không lâu dài. Ðây là nghiệp quả ở đời sau. Ðến khi được làm người, lại chịu thân bần tiện, cùng khổ, xấu xa, suy bịnh, đoản thọ. Do sức nghiệp ác của đương nhơn, khiến cho ngũ cốc hoa màu bên ngoài bị hao kém, gây ương lụy cho mọi người.

Ngũ giới của Phật giáo: 2.Không trộm cướp

Giới thứ hai trong ngũ giới, Đức Phật khuyên chúng ta không nên trộm cướp: Từ vật trọng như châu báu vàng bạc, đến vật mọn như cọng rau, trái ớt, mũi kim… Ðại khái những vật gì người ta không cho mà mình cố lấy, đều thuộc về trộm cướp.

Nếu phân biệt rộng ra, thì trộm cướp có nhiều hình thức như: Lén lút mà lấy. Ỷ bè đảng mạnh giựt ngang. Cậy quyền thế làm tiền kẻ yếu. Nhân lúc người túng ngặt cho vay nặng lời hoặc cầm mua với giá rẻ mạt. Tích trữ đầu cơ để bán chợ đen. Cân non, đong thiếu, trốn thuế, lậu đò, mưu mô lường gạt để lấy của… Tóm lại là: Bất cứ hình thức nào, nếu do lòng gian tham lấy của tư hay công trong trường hợp bất chính, đều thuộc về trộm cướp.

Vì sao Đức Phật cấm trộm cướp

Bởi đối với tài vật sở hữu ta biết tôn trọng giữ gìn, mà trở lại cố chiếm đoạt của người, đó là trái lẽ công bình. Khi ta mất hay vô ý đánh mất một số tiền hoặc vật chi, ta lo buồn ăn ngủ không yên. Vậy tại sao lại đang tâm lấy của người để cho họ phải khóc than, đau khổ. Ðó chính là thiếu lòng từ bi.

Trộm cướp gây cho phạm nhân bị tù tội, bị khinh chê cha mẹ gia đình cũng buồn rầu xấu hổ. Hơn nữa, nếu trộm cướp làm cho người lâm cảnh nghèo khổ hoặc thất chí quyên sinh, thì kẻ gây nhân phải chịu nghiệp báo không nhỏ. Theo kinh Phật, kẻ trộm cướp sẽ bị những ác quả: Nhẹ thì vất vả nghèo hèn. Nặng phải làm Súc sanh để trả nợ, hoặc bị đọa vào Địa ngục. Cho nên vì lẽ công bình, vì lòng từ bi, vì giữ nhân cách, vì tránh ác báo, Ðức Thế Tôn khuyên răn không nên trộm cướp.

Nhân quả của không trộm cướp

Nếu giữ giới không trộm cướp, mà lại có lòng xót thương giúp đỡ bố thí, thì sẽ được mọi người kính yêu. Lòng từ bi và các phẩm lành tăng tiến, tài vật đầy đủ khỏi cảnh nghèo nàn. Thường được sanh lên cõi trời cõi người hưởng phước an vui.

Nếu kẻ nào ưa trộm cướp, thì hiện đời bị ác sắc, ác lực, ác danh, tiền của hao giảm, quyến thuộc chia lìa. Hoặc mạng sống ngắn ngủi, người khác mất đồ mình bị nghi ngờ. Hoặc muốn kết thân cũng không ai tin cậy, thường bị hiền thánh quở trách. Ðó là nghiệp quả trong đời hiện tại.

Lúc bỏ báo thân lại đọa vào Tam đồ, bị ác sắc, ác lực, ác danh, đói khát, chịu nhiều nỗi khổ sở, mạng sống không lâu dài. Ðây là nghiệp quả ở đời sau. Ðến khi sanh làm người lại nghèo hèn, tuy được tài vật liền bị hao mất. Cha mẹ anh em vợ con đều không thương mến, thân thường khổ nhọc, tâm hằng buồn lo. Do sức nghiệp ác của đương nhân, khiến cho mọi người khi ăn món chi vào, phần sắc lực cũng kém, gây ương lụy cho vạn dân.

Ngũ giới của Phật giáo: 3.Không tà dâm

Tà dâm chẳng phải là cấm hẳn việc nam nữ, mà chỉ ngăn không được ngoại tình. Theo giới điều thứ ba nầy, khi vợ chồng cưới hỏi có đủ lễ gọi là chánh. Ngoài ra lén lút lang chạ làm điều phi hạnh gọi là tà. Nói vi tế hơn, dù vợ chồng chánh thức mà ăn nằm không phải chỗ, gần gũi không chừng mực, cũng thuộc về tà dâm.

Ðức Phật sở dĩ liệt tà dâm là một trong ngũ giới, vì mỗi người ai cũng muốn gia đình mình đầm ấm yên vui, vợ con trinh chánh. Nếu lại đi phá hoại làm nhục nhã cho gia đình kẻ khác, đó là trái lẽ công bình. Kẻ làm tà hạnh chơi bời lả lơi, tất bị mọi người khinh rẻ chê bai, đó là mất phẩm cách. Khi trong nhà chồng hoặc vợ có dạ tà tư thì gia đình ấy không còn hạnh phúc. Bởi chồng vợ không tin nhau, con cái bị xấu hổ, thân thuộc không đoái hoài, sự nghiệp sẽ suy vi.

*

Kẻ đắm mê sắc dục cũng như người cầm đuốc đi ngược gió, tai họa trở lại chính mình, nếu không hại nước tan nhà thì cũng hư thân mất mạng. Như chúng ta đã thấy trên báo chí hằng ngày, những án mạng và kết quả thảm khốc do sắc dục gây ra, nếu tính lại, không biết bao nhiêu mà kể! Theo trong kinh, những ác quả do tà dục gây ra, nhẹ thì nhiều kiếp vợ con không trinh chánh, gia đình tan rã, nặng tất sẽ bị đọa Tam đồ. Tóm lại, vì trọng lẽ công bình, vì tránh ác báo đời nầy và đời sau, Đức Phật đã răn dạy không nên tà dâm.

Nhân quả của không tà dâm

Nếu giữ giới không tà dâm, thì hiện đời gia đình được hòa thuận an vui, mọi người nể trọng. Đời sau sáu căn đoan nghiêm toàn vẹn, vợ con trinh chánh. Được người kính mến, khỏi sự phiền lụy ưu sầu, như kinh Thập Thiện đã nói.

Nếu kẻ nào ưa tà dâm thì khó giữ gìn thân mình cho đến kẻ khác, mọi người trông thấy đều sanh lòng nghi kỵ. Khi làm việc chi trước hay nói dối, tâm thường rối loạn chịu sự khổ não, tài vật hao mất khó tu pháp lành. Lại bị vợ con khinh buồn không còn thương mến, thân thể suy kém mạng sống ngắn ngủi. Ðó là quả báo hiện tại của nghiệp tà dâm.

Lúc bỏ báo thân, lại đọa vào Tam đồ, bị ác sắc, ắc lực, đói khát, chịu nhiều nỗi khổ sở, mạng sống không lâu dài. Ðây là nghiệp quả ở đời sau. Ðến khi được làm người thì hình tướng xấu thô, hay ác khẩu, không ai thích thân thiện, không thể giữ gìn thê thiếp, con trai, con gái. Do sức ác nghiệp của đương nhơn, khiến cho mình và người không được tự tại.

Ngũ giới của Phật giáo: 4.Không vọng ngữ

Tướng trạng về giới thứ tư trong ngũ giới nầy có bốn cách: Nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác.

Nói dối

Nói dối là như chuyện không nói có, có nói không. Việc quấy nói phải, phải nói quấy, điều nghe nói không nghe, không nghe nói nghe; Hoặc trước mặt khen dồi, sau lưng chê mạt. Tóm lại, những lời trước sau mâu thuẫn, chân giả khác nhau, trong ngoài bất nhất, đều thuộc về nói dối cả.

Nói thêu dệt

Nói thêu dệt là việc ít xít ra nhiều làm cho người sân hận, trau chuốt lời nói để chữa lỗi mình. Hoặc dùng lời ngọt ngào êm tai để cám dỗ khiến cho người say mê đắm nhiễm. Hoặc cũng có khi là nói châm biếm làm cho kẻ nghe phải khổ tâm. Ðại khái những lời nói thêm bớt không đúng nghĩa chơn thật, cho đến văn chương bóng bảy phù phiếm, làm cho người mê loạn, tâm ý phóng đãng theo việc tà. Hoặc sanh niệm vơ vẩn thương buồn, đều thuộc về nói thêu dệt.

Nói đôi chiều

Nói đôi chiều là đem chuyện đây học kia, đem chuyện kia học đây. Đến chỗ nầy nghiêng theo bên nầy đi chỗ nọ phụ theo bên nọ. Làm cho đôi bên sanh ra giận hờn thù oán nhau. Khiến bạn bè đang thân trở thành nghi ngờ chống đối.

Nói thô ác

Nói thô ác là mắng chửi la hét, dùng nhiều lời lẽ nặng nề không thanh bai, làm cho người nghe phải khổ đau hoặc buồn rầu sợ hãi.

Bản chất của vọng ngữ

Bốn điều trên đều gọi là nói vọng, tức những lời trái với lẽ chân thật. Bởi Phật giáo là đạo như thật, nếu người Phật tử mãi theo ngọn trào hư vọng không thiết tìm sự thật thì khó trở lại nguồn chân. Ta đã sống trong vòng mê vọng mà còn chồng chất thêm sự giả dối nữa, thì làm sao đi đến chỗ giải thoát? Cho nên muốn học Phật, tất phải tôn trọng sự thật.

Lại, động lực của sự dối trá là lòng tham sân ích kỷ, muốn hại người để thỏa ý niệm đen tối của mình. Kẻ bị phỉnh gạt phải sanh phiền não, đau khổ. Có khi chuốc oán vương thù, hoặc tán gia bại sản. Người tu hành mà làm như thế thì lương tri đã mất, đâu còn tình thương? Kẻ dối trá không những làm mất lòng tin tưởng của mọi người đối với mình, mà lại gây cho bao nhiêu kẻ khác nỗi hoang mang nghi ngại. Sự an hòa trong xã hội do đó mà bị xáo trộn.

Cho nên lời nói tuy không phải đao kiếm, nhưng còn nguy hiểm hơn. Vì nó có tác dụng của hai mũi nhọn, một mũi đâm vào người khác, và một mũi trả lại đâm chính người sử dụng. Ðức Như Lai thường phát ra phạm âm thanh triệt, tướng lưỡi rộng dài có thể chấm đến mé tóc nơi trán, do vì nhiều kiếp tu hạnh chân thật, không nói vọng.

Nhân quả của vọng ngữ

Theo kinh Phật, nghiệp vọng ngữ nếu nhẹ thì mang quả báo bị mọi người mất tin tưởng. Hoặc bị người chán nản lánh xa, việc làm thất bại. Như nói vọng có tánh cách hại nhân hoặc phá hoại Tam bảo, kẻ ấy sẽ đọa vào ba đường ác. Khi được làm người phải bị câm ngọng, chịu sự khinh rẻ chê bai. Cho nên, vì tôn trọng sự thật, vì lòng từ bi, vì bảo tồn sự trung tín đối với mình và trong xã hội, vì tránh quả báo xấu ác…Đức Phật khuyên dạy không nên nói vọng.

Nếu giữ giới không vọng ngữ, sẽ được mọi người mến trọng tin cậy, thường ưa gần gũi, việc làm thuận lợi; Và bởi lời chân thật phát từ tâm chân thật, nên các phẩm lành tăng tiến, thường hưởng phước nhơn thiên.

Nếu kẻ nào ưa nói vọng, thì hiện đời bị ác sắc, ác khẩu. Cho dù có nói thật cũng không ai tin, mọi người khinh ghét chẳng muốn thấy gặp. Ðó là nghiệp quả đời hiện tại. Lúc bỏ báo thân lại đọa vào Tam đồ, chịu sự đói khát, nhiệt não, khổ sở vô cùng. Ðây là nghiệp của đời sau. Ðến khi được làm người thì tướng miệng và âm thanh không đầy đủ. Dù nói thật cũng không ai tin, kẻ khác cũng không ưa gặp mặt. Tuy nói chánh pháp người không thích nghe. Do sức ác nghiệp của đương nhơn chiêu cảm, khiến cho sản vật bên ngoài thường bị hao kém.

Ngũ giới của Phật giáo: 5.Không uống rượu

Về giới thứ năm trong ngũ giới, Đức Phật khuyên không nên tự mình uống rượu, hoặc ép bảo người khác uống.

Sở dĩ, Đức Phật cấm uống rượu, vì rượu càng uống càng đi vào chỗ thâm nhiễm. Các chứng bịnh như đau gan, đau mắt, phong tê, bại liệt, ung độc do đó mà sanh. Không những đã hại thân mình, mà còn di lụy đến con cháu. Người uống rượu khi say sưa thì cử chỉ lời nói đều thô tháo, bỏ bê công việc, bị người cười cợt chê bai. Một chén thuốc độc nếu ta uống vào, chỉ chết một thân hiện tại, chứ uống rượu thì tâm thần hôn muội, trí huệ lần lần mất, giết chết pháp thân, bị đọa vào vòng sanh tử khổ trong vô số kiếp.

Lại uống rượu tuy không phải là phạm sát, đạo, dâm, vọng, nhưng nó là nguyên nhân sanh ra bốn thứ ấy vô số tội lỗi khác. Theo trong kinh, uống rượu gây ra mười điều tai hại như sau: Của tiền rơi mất, thân hay đau bịnh, tăng trưởng lòng giết hại; Thêm việc sân hận tranh cãi, trí huệ lần lần kém, phước đức tiêu mòn; Sự nghiệp không thành, tuổi thọ giảm bớt, thân tâm nhiều khổ, khi chết đọa vào Địa ngục.

Nói đại khái, vì tránh đau bịnh, vì giữ phẩm cách, vì bảo tồn hạt giống trí huệ, vì ngăn ngừa tội lỗi, Đức Phật răn dạy không nên uống rượu.

Nhân quả của uống rượu

Nếu giữ giới không uống rượu, về phương diện cá nhân, sẽ tránh được mười điều tai hại trên. Về phương diện đoàn thể thì gia đình được yên vui, con cái ít tật bịnh. Xã hội được hòa mục, nòi giống thêm hùng cường.

Nếu kẻ nào thích uống rượu thì trong hiện tại hay hao mất tài vật, thân tâm nhiều bịnh. Thường ưa đấu tranh, tiếng xấu đồn xa, trí huệ lần kém. Tâm không hổ thẹn, sắc lực hao mòn, không thể tu pháp lành. Thường bị nhiều tiếng chê trách, mọi người không muốn gần gũi. Ðó là nghiệp quả hiện tại của sự uống rượu.

Lúc bỏ báo thân rồi lại bị đọa vào Tam đồ, thường chịu đói khát và vô lượng sự khổ não. Ðây là ác quả đời sau. Ðến khi được làm người, tâm thường cuồng loạn, không thể nghĩ nhớ pháp lành. Do nghiệp ác của người nầy chiêu cảm, khiến cho sản vật bên ngoài thường bị hư hao, thối nát.

Sự nguy hại của việc không giữ ngũ giới

Trên đây chỉ kể lược qua về điều lợi hại của sự giữ và phạm ngũ giới. Ðứng về chiều sâu, tức là phương diện chủng tử mà nói, thì như chư Tổ đã dạy: Nếu sát sanh, sẽ mất hết hạt giống từ bi. Nếu trộm cướp, sẽ mất hết hạt giống phước đức. Nếu tà dâm, sẽ mất hết hạt giống thanh tịnh. Nếu nói vọng, sẽ mất hết hạt giống chân thật. Nếu uống rượu, sẽ mất hết hạt giống trí huệ. Đây là mối nguy hại của sự khuyết phạm năm giới.

Chư Thiên cũng bị đắm chìm trong ngũ dục 

Trong ngũ đạo duy có nhơn đạo đắc giới, còn bốn nẻo kia rất khó. Tại sao thế? Vì chư thiên nơi cõi trời tâm nhiễm lạc sâu nặng nên khó đắc giới. Như thuở trước Tôn giả Mục Kiền Liên vì người đệ tử đau bịnh. Ngài lên cõi trời hỏi cách điều trị nơi ông Kỳ Bà (ông đã sanh lên thiên quốc).

Khi ngài đến nơi vừa lúc chư thiên đang vào vườn Hoan Hỷ vui chơi. Lúc ấy tất cả thiên chúng đi ngang qua thấy Tôn giả đứng bên lề đường, nhưng không vị nào đoái hoài đến. Ông Kỳ Bà đi sau rốt, trông thấy Tôn giả, liền đưa một tay lên chào, rồi dong xe đi thẳng. Ngài Mục Kiền Liên tự nghĩ: “Kẻ nầy khi còn ở nhân gian, là đệ tử tại gia của mình. Nay vừa được hưởng phước trời, đã vội say đắm quên mất tánh cũ”.

Nghĩ xong, ngài liền dùng thần lực bắt cỗ xe như ý đứng lại. Bất đắc dĩ, Kỳ Bà phải xuống xe đảnh lễ nơi chân. Tôn giả liền nói nhiều nhân duyên để quở trách. Kỳ Bà thưa:

“Bạch Ðại Ðức! Vì khi còn ở nhân gian tôi là đệ tử của ngài, nên mới có được cử chỉ như thế. Còn chư thiên khác vị nào cũng đi suốt qua cả, đâu có ai thưa hỏi đón chào? Ấy do bởi sự vui nơi đây rất vi diệu, nên thiên chúng đắm nhiễm, tâm không được tự tại. Xin đại đức thể tình mà khoan thứ cho”.

Tôn giả hỏi: “Đệ tử của ta bịnh như thế, phải điều trị cách nào?”

Kỳ Bà thưa: “Chỉ cấm thực ít hôm là khỏi”.

Chư thiên cũng còn khó đắc ngũ giới

Có một độ, ngài Mục Kiền Liên khuyên Thích Ðề Hoàn Nhân rằng:

“Ðức Như Lai ra đời là một thắng duyên khó gặp, sao ông chẳng thường gần gũi Phật để thưa hỏi chánh pháp?”

Ðế Thích muốn tỏ cho ngài biết sự khó được như ý đó, liền bảo gọi một vị thiên tử đến. Vị thiên tử nầy có một thiên nữ và một kỹ nhạc. Tuy biết mạng lịnh của Thiên đế là oai trọng, nhưng vì đắm nhiễm quá sâu, nên đợi gọi đến lần thứ tư bất đắc dĩ mới tạm dẹp sự vui qua một bên, gắng gượng đến trình diện. Thiên đế hỏi lý do đến trễ, ông hổ thẹn đem sự thật tâu lên. Khi ấy, Ðế Thích mới thưa:

“Bạch đại đức! Vị thiên tử nầy duy có một thiên nữ, một kỹ nhạc, mà còn khó nỗi cắt bỏ sự vui. Huống chi tôi là Thiên vương có nhiều cung điện rực rỡ nguy nga. Có vô số ngọc nữ phi tần hầu hạ, trăm ngàn thứ kỹ nhạc nhiệm mầu. Nhìn bên Ðông quên bên Tây, nỗi ái lạc buộc ràng, sự cắt lìa còn khó hơn muôn phần! Vì thế, tuy nhận hiểu Như Lai khó gặp, chánh pháp khó nghe, cũng không biết làm sao để thường gần gũi được!”

Ngũ giới khó đắc chớ không phải tầm thường 

Phàm thọ giới phải dùng tâm mạnh mẽ quả quyết tự thệ, mới có thể đắc giới. Chư thiên sở dĩ khó đắc giới, vì ý niệm say đắm theo thú vui ngũ dục nặng nhiều, sức thiện tâm lại kém yếu. Hàng Ngạ quỷ bị khổ vì đói khát, thân tâm nóng bức. Chúng Địa ngục chịu vô lượng nỗi khổ độc, tâm ý duy nhớ biết sự khổ đau, nên không do đâu mà đắc giới.

Còn chúng Bàng sanh phần nhiều vì nghiệp chướng nặng, không hiểu biết chi. Lại chẳng thọ pháp giới, nên cũng khó đắc giới. Tuy trong kinh có nhiều chỗ nói rồng cầu trai pháp. Nhưng Long vương do thiện tâm thọ Bát quan trai nên chỉ được công đức lành chớ khó đắc trai vì bởi còn nhiều nghiệp chướng.

*

Về nhơn đạo, trong tứ thiên hạ, duy loài người ở ba châu: Diêm Phù Đề, Cù Da Ni, và Phất Bà Đề, là có thể đắc ngũ giới. Lại trong ba châu, riêng người ở châu Diêm Phù Đề dễ đắc giới hơn cả. Về châu Cù Da Ni, thuở trước Ðức Thế Tôn sai Tôn giả Tân Ðầu Lư qua bên ấy làm Phật sự, nên nơi đó có bốn bộ chúng.

Châu Phất Bà Đề nhờ nhiều vị Tỷ khưu đắc đạo sang hoằng hóa, nên ở đó cũng có bốn bộ chúng. Duy người nơi châu Uất Đan Việt vì bị phước báo ngăn che, lại căn trí si mê không thọ thánh pháp, chánh giáo không thể lưu hành, nên không có nhân duyên đắc giới.

Loài người có bốn hạng: Nam, nữ, huỳnh môn và hai căn. Trong bốn hạng nầy, duy có nam nữ đắc giới, còn huỳnh môn và hai căn không đắc giới. Trong hai hạng nam, nữ: Hoặc những kẻ giết cha, giết mẹ, giết A la hán. Hoặc làm thân Phật ra huyết, phá hòa hợp Tăng, làm hoen ố Tỷ khưu ni. Hoặc phạm tặc trụ, độ người vượt pháp, đọa căn lành…đều không đắc giới.

Ngũ giới của Phật giáo: Thay cho lời kết

Như Đức Phật đã nói: Khi còn là chúng sanh thì tất cả đều có lỗi lầm. Hàng xuất gia nếu chưa đắc đạo, cũng vẫn còn trong vòng chi phối của phiền não. Nhất là vào thời mạt pháp nầy, bậc chân tu rất ít, người khuyết phạm lại nhiều. Vậy tất cả những người con Phật nên gìn lòng trung thứ, từ bi. Chỉ nên xét lỗi mình, dung lỗi người, tìm phương tiện sửa chữa nâng đỡ cho nhau.

Đừng nên rêu rao nói lỗi của tứ chúng. Bởi làm như thế, là bên trong đã tự gieo rắc hạt giống xấu ác của ghét khinh thù hận. Bên ngoài làm tổn não, ngăn trở hảo tâm của kẻ muốn học đạo, tạo nghiệp phá hủy Phật pháp. Vì vậy, Đức Phật đã ghép tội rao nói lỗi của tứ chúng vào một trong sáu trọng pháp.

Thế mà, có những Phật tử vì thiếu học hiểu suy xét. Vì tự ái cao mạn, hoặc vì bè phái riêng, rêu rao những việc lỗi lầm chưa biết thật hay hư của chư tăng ni cùng người đồng đạo. Như vậy có xứng đáng là con của đấng Ðiều Ngự chăng? Xin đem lòng trung thực nêu ra đây lời nhắc nhở chung cho tất cả người học Phật. Để đồng nhơn tránh những khổ báo ở hiện tại và tương lai!

(Ngũ giới là gì – Theo Phật học Tinh yếu)

Tuệ Tâm 2021.

Sưu Tầm Bởi Tuệ Tâm Admin ( https://kinhnghiemhocphat.com/ )

Xem Thêm:   Âm đức là gì

2 lượt xem | 0 Bình luận
Nam Mô A Di Đà Phật - Pháp Giới là trang chia sẻ phật pháp, kinh phật, pháp âm, câu chuyện phật giáo. Mong góp chút sức lực bé nhỏ để giúp các bạn tiếp cận được đại trí thức của đức Phật. Đừng hỏi tôi là ai. Hãy chấp trì danh hiệu Phật, gieo duyên với Phật Pháp để giúp bạn an lạc.
Pháp Âm Thần Chú Tu Học Blog