Giới luật Phật giáo là yếu tố vô cùng quan trọng đối với người Phật tử. Trong Tam vô lậu học giới định huệ thì giới đứng đầu tiên. Cho nên, không cứ là tại gia hay xuất gia nếu chẳng nghiêm trì giới luật thì dù tu bất cứ pháp môn nào cũng không thể nào thành tựu được.
Ðức Phật Thích Ca đã có lời di chúc khẩn thiết trước khi Ngài nhập Niết bàn: “Sau khi ta diệt độ, các người tu hành phải tôn kính giới luật làm thầy; dù cho ta còn tại thế để dạy dỗ cho các người mấy ngàn đời đi nữa, ta cũng thêm không điều nào ngoài giới luật.” Giới luật Phật chế ra rất nhiều, vì cần phải áp dụng cho nhiều hạng người tu hành: – Tỳ kheo,- Tỳ kheo ni,- Sa di, -Sa di ni. Riêng đối với hàng Phật tử tại gia, thì chỉ có 5 giới mà thôi. Nhưng nếu giữ được 5 giới ấy thì lợi ích cho mình, cho người không xiết kể.
- Thập thiện nghiệp đạo là gì.
- Từ bi hỉ xả là gì.
- Bố thí là gì.
- Trì giới là gì.
- Nhẫn nhục là gì.
- Hội Long Hoa là gì.
- Sự thật về hạn Tam tai.
Đại Lược về Giới Luật Phật Giáo
Ngài Đoàn Trung Còn bảo: “Luật tạng là một phần trong giáo lý nguyên thủy từ thời đức Phật, nhưng không được thuyết giảng trọn vẹn một lần. Trong suốt thời gian hành hóa, tùy theo từng hoàn cảnh phát sinh cụ thể mà đức Phật chế ra từng điều luật và dạy đệ tử phải lưu truyền về sau. Cho đến khi Phật nhập Niết-bàn, ngài có căn dặn lại hàng tăng chúng về sau nhất thiết phải xem giới luật là bậc thầy để nương theo trên đường tu học. Ngay sau khi Phật nhập diệt, ngài Ưu-ba-ly được giáo hội ủy thác trùng tuyên lại phần giới luật trong khi kết tập kinh điển lần thứ nhất. Những gì ngài nhắc lại đều được ghi vào Luật tạng.
Luật tông ngay từ thời đức Phật tuy không hề được xem là một bộ phái riêng biệt, nhưng rất được chú trọng. Một trong những lời di huấn của Phật trước khi nhập Niết-bàn là dặn dò chư tỳ-kheo nhất thiết phải lấy giới luật làm thầy. Học thuyết của Luật tông về sau phát triển quan điểm ấy, cho rằng người ta trước hết phải chuyên giữ giới luật cho thật nghiêm mật, thì mới có thể nhờ đó mà đạt được sự an định thân tâm. Từ chỗ an định thân tâm, mới phát sinh trí huệ.
*
Đạo Phật được bảo tồn lâu dài là nhờ giới luật. Hàng tăng ni xuất gia được tôn trọng sùng bái là nhờ các vị nghiêm giữ giới luật. Thậm chí cư sĩ mà giữ trọn được 5 giới của mình cũng chính là nguồn gốc của sự an vui, thanh thản. Từ xưa đến nay, tất cả các tông phái khác nhau, dù không phải là Luật tông nhưng hết thảy cũng đều xem trọng giới luật. Trong lễ bố-tát, tức là nghi thức tụng giới mỗi tháng hai lần, có đoạn mở đầu nói rõ ý nghĩa quan trọng của việc giữ giới như sau:
Như người bị què chân,
Không thể đi đứng được.
Cũng vậy, người phạm giới,
Không sanh cõi trời, người.
Người muốn sanh cõi trời,
Hoặc trong chốn nhân gian,
Phải thường giữ giới luật,
Không để cho hủy phạm.
Như xe vào đường hiểm,
Bị mất chốt, gãy trục.
Người phạm giới cũng vậy,
Giờ sắp chết lo sợ.
Như người tự soi gương,
Đẹp, xấu sinh ưa, chán.
Nghe thuyết giới cũng vậy,
Không hủy phạm, vui mừng.
Như đôi bên giao chiến,
Mạnh tiến, yếu phải lùi.
Nghe thuyết giới cũng vậy,
Trong sạch được an ổn.
*
Phần lớn kinh điển Phật giáo đều được phân chia thành một trong hai khuynh hướng, Đại thừa hoặc Tiểu thừa. Riêng đối với những phần thuộc về giới luật thì cả hai khuynh hướng Đại thừa và Tiểu thừa đều tin nhận và vâng theo không hề có sự phân biệt, chia tách. Người ta chỉ thấy có sự khác biệt về quan điểm, về phương thức hành trì giới luật, chứ không thấy có những phần giới luật riêng biệt cho Đại thừa hoặc Tiểu thừa.
Tuy nhiên, trong nội dung giới luật có sự phân chia thích hợp cho các mức độ tu tập khác nhau. Như đối với cư sĩ tại gia có 5 giới, hoặc có thể tùy ý phát nguyện thọ Bát quan trai gồm 8 giới; đối với sa-di hoặc sa-di ni cũng có sự khác biệt về giới luật, và đơn giản hơn nhiều so với phần giới luật của các vị tỳ-kheo; và giới luật của tỳ-kheo ni lại còn nghiêm ngặt hơn nữa…
Khác với các phần trong giáo pháp như tạng Kinh, tạng Luật, vốn được truyền bá rộng rãi không giới hạn, phần giới luật được truyền dạy với sự chọn lựa chỉ dành cho các đối tượng thích hợp. Và hơn thế nữa, người muốn thọ giới phải được sự truyền dạy chính thức của các vị thầy có đủ đức độ, phẩm hạnh, và phải được truyền giới thông qua một nghi lễ nghiêm trang tổ chức tại giới đàn…“
Giới Luật Phật Pháp& Luật Tông
Khi Ðức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà chế ra nhiều loại giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài,như Ngài Ưu-Ba-Li là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại những giới luận mà Ðức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu-Ba-Li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là “Bát thập tụng luận”.
Về sau,tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ luật riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần. Những bộ luật này được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn. Ðến đời Ðường, Ngài Trí Thủ luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử của Ngài là Ðạo Tuyên luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy, bộ luật Tứ phần là thích hợp căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào luật này để lập ra Luật tông.
Trong các Tông về luật, chỉ có Luật tông của Ngài Chung nam sơn là thịnh hành hơn hết và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa cả Ðại Thừa lẫn Tiểu Thừa.
Sự Trọng Yếu Của Giới Luật
Phàm một tổ chức, một công việc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những quy luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân theo những giới luật nghiêm minh. Như chúng ta đã biết trong phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ nhân sinh.
Nghiệp định đoạt tất cả đời sống chúng ta. Nghiệp có ba loại: Nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các điều ác, thì ta không thọ quả báo sinh tử luân hồi. Không có quả báo sinh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát. Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật, chính là một phương pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chia ra.
Phương pháp này rất thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tử chúng ta:
– Giữ giới không sát nhơn hại vật, hiện người không làm người hung dữ, khỏi bị tù tội, về sau khỏi bị đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, và khỏi bị người giết hại.
– Giữ giới không trộm cướp thì hiện thời làm người lương thiện khỏi bị giam cầm xiềng xích, đời sau không mắc quả báo, bị người giựt của cướp nhà.
– Giữ giới không tà dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người không bị rầy rà, đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu.
*
– Giữ giới không nói dối, không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc, không nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi, lại được sự kính trọng, đó là tu.
– Giữ giới không cờ bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ, khỏi say sưa, làm điều tội lỗi và khỏi bị người khinh bỉ, trí tuệ tăng trưởng, đo là tu.
Nói một cách tổng quát, giữ một giới là ngăn ngừa được một điều tội lỗi, và thêm được một điều lành; giữ nhiều giới là ngăn ngừa được nhiều điều tội lỗi và thêm được nhiều điều lành. Bởi thế, nên giữ giới luật là phương pháp tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các Phật tử cầu đạo giải thoát. Nhờ giữ “giới luật” không làm các việc tội lỗi, nên tâm được “định”; do tâm định nên phát ra”trí huệ sáng suốt”. Nhờ có trí huệ sáng suốt nên phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tâm thành Phật.
Người tu tại gia có giữ giới, mới thành Phật tử chơn chính. Người xuất gia thọ Sa-di,có giữ giới mới phải là chơn tu. Thầy Tỳ-kheo có giữ giới mới phải là Tỳ-kheo thanh tịnh. Bồ Tát có giữ giới mới phải là chơn Bồ Tát. Bởi thế nên trong ba món vô lậu học (giới,định,huệ ), “giới” đứng đầu tất cả. Luật Tông sở dĩ lập ra là nhằm vào lợi ích thiết thực và chín chắn của giới luật, như đã trình bày ở trên.
Các Loại Giới Luật Phật Pháp
Giới luật có nhiều loại từng bậc. tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai loại lớn là: Giới luật của Ðại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa.
– Những giới luật nào có tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có mục đích chính là tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu Thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người khác cũng được lợi. Như giữ giới không trộm cướp, thì mình được lợi là kềm giữ lòng tham; người khác cũng được lợi là khỏi phải bị cái khổ vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng chỉ liệt vào giới Tiểu-thừa; vì trong khi giữ giới, mục đích chính, trực tiếp là giữ cho mình; còn cái lợi cho người chỉ ảnh hưởng gián tiếp của giới ấy.
Những giới như: Ngũ giới (5 giới do Phật chế cho người tại gia); Bát-quan-trai giới (8 giới Phật chế cho người tại gia-tập sống như người xuất gia); Sang-di giới và Sang-di-nhiều giới (10 giới Phật chế cho người mới xuất gia); Thức-xoa (6 điều nữ học giới); Tỳ-kheo giới (250 giới) và Tỳ-kheo nhiều giới (348 giới) là những giới thuộc về phái Tiểu-thừa.
*
Những giới luật nào có tánh cách tích cực, nhằm vào mục đích lợi tha hơn tự lợi thì thuộc về Ðại thừa giới. Những giới thuộc về Ðại thừa giới như: 10 giới trong 48 giới khinh của Bồ Tát. Tam-tụ tịnh giới (gồm có: Nhiếp luật nghi giới là giới không làm việc ác. Nhiếp Thiện Pháp giới là giới làm việc lành. Nhiêu ích hữu tình giới là giới làm ích lợi cho chúng sanh, như làm các việc có tánh cách từ thiện xã hội v.v..).
Nếu đứng về phương diện hành trì mà phân loại, giới luật có thể chia làm hai phần lớn: Một phần thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn đứt ác nghiệp. Một phần thuộc về tác trì, tức hành động theo thiện nghiệp.
1. Về chỉ trì: Có hai bộ giới bổn:
a. Tỳ-kheo giới bổn, gồm có 250 giới, chia làm 8 loại là:
1.- Ba-la-di (4 giới). 2.-Tăng-tàng (13 giới). 3.-Bất-định (2 giới). 4.- Xã-đọa (30 giới). 5.- Ðơn-đọa (90 giới). 6.- Ðề-xà-nhiều (4 giới). 7.- Chúng-học (100 giới). 8.- Diệt-tránh (7 giới). Hai trăm năm mươi giới này có thể chia làm tám loại (ngũ thiên), sáu loại (lục tụ) hay bảy loại (thất tụ).
b. Tỳ-kheo-nhiều giới bổn (giới của Tỳ-kheo-nhiều gồm có 348 giới, chia làm 7 loại là:
1.- Ba-la-di (8 giới). 2.- Tăng-tàng (17 giới). 3.-Xả-đọa (30 giới). 4. – Ðơn-đọa (178 giới). 5.- Ðề-xà-nhiều (8 giới ). 6.- Chúng-học (100 giới). 7.- Diệt-tránh (7 giới). Ba trăm mươi bốn tám giới này, có thể chia là bảy loại như trên, nhưng cũng có thể làm tùy nghi chia làm năm loại, sáu loại ,bảy loại như bên tăng.
Giới Tỳ-kheo và Tỳ-kheo nhiều trên này gọi là Cụ túc giới. Nghĩa là những giới đem lại cho người thọ vô lượng giới hạnh, phước đức. Nhưng 250 hay 348 giới, chưa phải là nhiều. Ðó chỉ là giới tóm thâu những giới luật chính, làm giềng mối cho sự trì phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới luật thì về “lượng” sánh đồng hư không; về “cảnh” lại nan khắp cả pháp-giới. Nếu kể về bậc trung, thì bên tăng có đến 3.000 oai nghi, 80.000 tế hạnh; bên Ni có đến 80.000 oai nghi và 120.000 tế hạnh.
Vì sao Phật lập ra nhiều Giới Luật như thế?
– Vì mỗi một giới là ngăn ngừa tội lỗi. Mà con người chúng ta là phàm phu, từ tâm niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi. Cho nên phải có vô số giới luật để ngăn ngừa.
2.- Về tác trì: Gồm có 20 kiền độ.
Kiền độ nghĩa là phẩm loại, điều luật. 20 Kiền độ là: Thọ giới Kiền độ. Thuyết giới Kiền độ. An cư Kiền độ. Tứ tự Kiền độ… Sự chia ra chủ trì và tác trì là cốt lõi dễ phân biệt trong khi giữ giới; chứ thật ra nói một cách rốt ráo thì trong ”chỉ” có ”tác”, trong ”tác” có ”chỉ”, không thể nói một cách dứt khoát được.
Chúng tôi chỉ giới thiệu những danh từ của các giới luật tăng, ni chứ không nói rõ hơn. Vì theo luật Phật, người thọ giới ở cấp bực nào thì chỉ biết giới luật của cấp ấy mà thôi.
Các Danh Từ Và Phương Pháp Thực hành Giới Luật
Như chúng ta đã thấy ở trên, giới luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh từ chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn giữ giới được kết quả, trước tiên phải biết những điều sau đây:
1. Sao gọi là ”danh, chủng, tánh, tướng”?
- a.- Danh là tên (danh từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới; như giới bất sát sinh, giới bất thâu đạo.v.v…
- Chủng là chủng loại, hay nhóm. Như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàng.v.v..
- Tánh là tâm tánh, là tánh chất ở bên trong. Như người giữ giới, trong tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng.v.v.. hoặc thấy người phạm giới cũng không sanh tâm vui mừng hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được thanh tịnh như vậy, gọi là ”giới tánh”.
- Tướng là hình tướng ở bên ngoài. Như bên trong đã không nghĩ đến sát sanh, trộm cướp (tánh giới) .v.v.. mà bên ngoài cũng không làm những điều ác ấy, gọi là ”giới tướng”.
Tóm lại, mỗi khi phạm một điều tội lỗi, người giữ giới phải biết tội ấy là gì (danh), sát hay đạo .v.v..? thuộc về loại nào (chủng), Ba-la-di hay Tăng tàng.v.v..? Thuộc về nội tâm (tánh) hay ngoài thân (tướng)? Và cuối cùng hành giả phải biết tội ấy, theo luật phải trị phạt thế nào mới được thanh tịnh?
2. Sao gọi là ” khai, giá, trì, phạm ”?
- Khai là mở, cho làm.
- Giá là cấm, không cho làm.
Như khi Phật còn tái thế, Ngài cấm các vị Tỳ Kheo leo lên cây, đó là ”Giá”. Nhưng về sau có vị Tỳ Kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt, Ngài không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối cùng bị ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: ”Nếu có duyên sự thì được leo cây.”, như thế gọi là ”Khai”. Một thí dụ khác: Người Phật tử phải giữ giới không uống rượu. Ðó là ”Giá”. Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu để hòa với thuốc, uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng. Ðó là ”Khai”. Nhưng trước khi uống, phải bạch với chư tăng.
- Trì là giữ gìn. Như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh tịnh thì gọi là ”Trì”.
- d.- Phạm là vi phạm. Như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì gọi là ”Phạm”.
Tóm lại, trong khi tu hành giữ giới luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi hành vi hàng ngày của mình; xét xem một cách sáng suốt, thế nào là ”Trì”, thế nào là ”Phạm”; trong trường hợp nào, và giới nào được ”Khai”; Trong trường hợp nào, và giới nào không được ”Khai”.v.v..
Nói một cách tổng quát khi đã thọ giới rồi thì phải ”Trì”. Nếu không ”Trì” mà ”Phạm”. Tuy thế nếu vì lòng từ bi, vì lợi ích chung, hay vì trí huệ thúc đẩy, thì có thể ”Khai” mà không phạm tội. Nhưng nếu vì tâm nhiễm ô, vì phiền não thúc đẩy mà ”Khai” là ”Phạm”.
3.- Sao gọi là ”chỉ trì, tác phạm và tác trì chỉ phạm”?
- Chỉ trì là nói về phương diện các điều ác, quyết giữ gìn không gây tội lỗi.
- Tác phạm là nói về phương diện các điều ác; đáng lẽ phải giữ gìn, mà lại không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi.
- Tác trì là nói về phương diện các điều thiện, cần phải làm, là phạm giới.
- Chỉ phạm là nói về phương diện các điều thiện; nếu đình chỉ không làm, là phạm giới.
Thí dụ: Về tội ăn trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm tác phạm. Trái lại, về hạnh bố thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ phạm.
4.- Sao gọi là ” tánh tội và giá tội, hay tánh giới và giá giới”?
- Tánh tội: Là tội sẵn có trong bản tâm chúng sanh, như sát, đạo, dâm, vọng. Bốn tánh này có sẵn trong tâm tánh chúng sanh từ vô thỉ đến nay. Hễ có chúng sanh lá có chúng nó! Mỗi người, không cần ai dạy bảo, không cần học tập, mà ai cũng đều biết sát, đạo, dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tánh tội.
- Giá tội: Là tội không sẵn có trong bản tâm, nhưng do hoàn cảnh, do tập nhiễm mà phát sinh; như tội uống rượu chẳng hạn. Nói một cách tổng quát: Ngoài bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng, còn bao nhiêu tội khác là giá tội cả.
- Tánh giới: Là để ngăn ngừa bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng. Giới này rất quan trọng, nhưng cũng rất khó giữ. Giữ được bốn giới này thì sự tu hành tất sẽ kết quả; và con đường giải thoát chắc chắn sẽ chờ đón hành giả.
- Giá giới: Là giới để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh là huân tập mà phát sinh. Những giới này ít quan trọng hơn tánh giới nói trên. Nhưng muốn giữ được tánh giới một cách ít khó khăn, phải cần giữ giá giới. Như người muốn đốn cây lớn, trước tiên phải chặt ngành ngọn; như người dùng binh giỏi, trước khi muốn chiếm một đô thị lớn, phải ngăn chặn các con đường đi vào đô thị ấy.
Giới Luật Phật giáo: Kết Luận
Như chúng ta đã rõ, mục đích của giáo pháp mà Ðức Phật chỉ bày cho chúng ta là để được minh tâm, kiến tánh, và thành Phật. Tất cả các tôn phái, mặc dù có chủ trương và đặc điểm khác nhau, nhưng mục dích cuối cùng đều là một: Giác-ngộ và thành Phật.
Luật tông cũng không đi ra ngoài mục đích trên, mặc dù phương pháp có khác phần nhiều các tôn khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật tôn trái lại chủ trương: Hãy tu đi rồi sẽ hiểu, hãy giữ gìn giới luật phải nghiêm chỉnh, thì tâm sẽ định tĩnh, thanh tịnh; tâm đã thanh tịnh thì trí huệ sẽ sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày, Phật tánh sẽ phát lộ.
Thật là một chủ trương rất thiết thực, mà kết quả lại chắc chắn! những kẻ học rộng biết nhiều mà không giữ giới cũng chẳng khác gì đèn trước gió: Có thể sáng lắm, nhưng không biết sẽ tắt khi nào. Trái lại kẽ học ít biết hẹp mà giữ giới một cách chân thật, thì cũng như ngọn đèn có ống khói: Khi mới thắp thì lu, nhưng không tắt thì càng cháy lâu cáng sáng tỏ.
*
Vì những lí lẽ trình bày ở trên, Luật tông đều phải thích hợp với mọi căn cơ, nhất là với những căn cơ chậm lụt. Ở đời chúng ta thường thấy phần nhiều những người có căn trí lanh lẹ, hiểu nhanh biết lẹ, nhưng vì hay ỷ sức mình, không chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ luật; nên cuối cùng chẳng thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp cả. Trái lại, những kẻ có căn trí tầm thường, nhiều khi chậm lụt nữa, nhưng lại dễ thành công trên đường đời cũng như trên đường đạo; vì họ biết thủ phận chịu khó khép mình vào kỷ luật, không tự mãn, tự cao.
Những đệ tử của Phật, có ai có một địa vị xã hội hà tiện (đi gánh phân ) và một căn trí thấp thỏi như Ngài Ưu-Ba-Li! Thế mà Ngài Ưu-Ba-Li lại trở thành một đệ tử của Phật, đã thành một bậc hiền thánh, chỉ vì đã nghiêm trì giới luật! Chúng ta đây, địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém Ưu Ba-Li; lẽ nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đẹp như Ngài, nếu chúng ta cũng tập nghiêm trì giới-luật như Ngài .
( Đại lược về Giới Luật Phật giáo – Theo Phật Học Phổ Thông )