Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Bồ Tát
Pháp Giới 10 tháng trước

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Bồ Tát

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Bồ Tát hay còn gọi là Kim Cang Lực Sĩ. Ngài thường theo hầu bên cạnh đức Phật, chịu trách nhiệm bảo vệ Phật, hàng phục ngoại đạo cũng như quỷ thần. 

Tuệ Tâm trước đây xem kinh chú, thường nghe danh của Ngài, nhưng cũng chỉ là nghe danh vậy, chẳng biết gì hơn. Ngày nay có duyên đọc được Kinh Đại Bảo Tích mới biết được sự tích về Ngài. Xin trích đăng một phần nhỏ kinh Đại Bảo Tích cho người hữu duyên đọc, để cùng nhau biết chút gốc tích về vị Bồ Tát phát nguyện đời kiếp hộ trì Phật pháp.

  • Tam giới là gì.
  • Vua A Xà Thế là Bồ Tát thị hiện.
  • Tôn giả A Nan.
  • Tôn giả Nan Đà
  • Xá Lợi Phất Tôn giả
  • Tôn giả Ma Ha Ca Diếp.
  • Tôn giả Mục Kiền Liên.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Bồ Tát
Kim Cang Lực Sĩ Bồ Tát: Ảnh minh họa

Pháp hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Bồ Tát Thứ Ba – Kinh Đại Bảo Tích

Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

*

“…Lúc Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ diễn thuyết thân khẩu tâm mật bất tư nghì của Bồ Tát, có bảy muôn hai ngàn chư Thiên và nhơn chúng phát tâm Vô thượng chánh chơn, ba muôn hai ngàn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn, mười bốn ngàn người xa lìa trần cấu được pháp nhãn tịnh, tám ngàn Tỳ Kheo tâm ý vô lậu.

Liền đó cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách, ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, giữa hư không mưa các thứ hoa, các thứ nhạc khí tự nhiên hòa tấu. Trong tiếng âm nhạc diễn ra những lời như vầy : Những ai nghe được pháp của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nầy diễn nói, nếu có lòng ưa thích kính tin, thời sẽ được thọ ký, sẽ mến thích kinh điển và thọ trì đọc tụng, vì người giảng nói, chẳng thối thất đạo tâm, sẽ vun trồng những công đức lành. Những người nầy đã từng cúng dường vô số chư Phật lợi ích chúng sanh.

Đức Thế Tôn bảo Tịch Ý Bồ Tát : Chừng ông có nghe những lời diễn nói của âm nhạc đó chăng?

– Bạch Thế Tôn ! Tôi nghe rõ. Do oai thần của ai mà có tiếng nhạc như vậy?

*

– Nầy Tịch Ý! Đó là Lôi Âm Bồ Tát từ nước Vũ Thị của Phật Lôi Âm Vương, đến Ta Bà thế giới nầy để ra mắt đảnh lễ ta, muốn hỏi pháp yếu và muốn nghe giáo pháp bí mật của Như Lai, nên ẩn thân trên hư không rải hoa cúng dường Phật và kinh pháp, cùng làm tiếng âm nhạc nói ra những lời như vậy.

Đức Phật dạy vừa dứt tiếng, Lôi Âm Bồ Tát từ hư không hiện thân xuống cúi đầu lễ chân Phật, đi nhiễu Phật bảy vòng ở trước Phật bạch rằng: Thế Tôn! Lôi Âm Vương Như Lai kính lời viếng thăm vô lượng đi đứng an lành, ngồi nằm khỏe khoắn.

Đức Phật bảo Lôi Âm Bồ Tát: Lành thay, Chánh Sĩ ! Ông cố đến thăm viếng Như Lai, muốn được nghe kinh pháp bí mật. Hiện nay Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thừa oai thần của Phật mà tuyên thuyết pháp yếu.

Lúc đó trong đại hội có chư Bồ Tát tự nghĩ rằng: Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nầy chứa nhóm công đức từ đời nào? Phát đạo tâm tại chỗ đức Phật nào? Phát nguyện như thế nào? Mà hiện nay được biện tài rộng lớn như vậy?

*

Đức Phật biết tâm niệm của đại hội liền bảo Tịch Ý  Bồ Tát: Về thời quá khứ vô số bất tư nghì kiếp, có đức Phật hiệu là Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương Như Lai Ứng Cúng Đẳng Giác Thế Tôn, hiện ra nơi thế giới Trang Nghiêm trong kiếp Thiện Kiến. Cõi đó nhơn dân đông nhiều, giàu có an lạc. Mặt đất bằng phẳng, không có cát đá gai góc, thuần là ngọc báu: lưu ly, thủy tinh, minh châu, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não.

Mặt đất mềm nhuyễn như y phục của chư Thiên, hương thơm ngào ngạt thêm ánh sáng màu rất đẹp. Cỏ mọc tươi tốt mềm dẻo, đi trên đó êm mát như bức thảm cõi trời. Khí hậu ôn hòa không quá lạnh quá nóng. Người nước đó tánh tình nhơn từ hòa nhã, thân khẩu tâm đều tịch tịnh, phiền não mỏng nhẹ, tất cả đều có oai lực tự tại. Pháp hội của đức Phật đó có mười hai cai đại Tỳ Kheo, ba mươi hai ức đại Bồ Tát. Đức Phật đó trụ thế ba mươi sáu ức tuổi.

*

Trong nước Trang Nghiêm có bốn thành lớn tên Khoái Kiến. Mỗi thành vuông rộng tám mươi muôn dặm, cách nhau bốn trăm dặm. Trong mỗi thành có cả ngàn quận huyện. Nhơn dân thân cao bốn dặm. Nơi đại thành Khoái Kiến lại có nội thành tên Thanh Tịnh, ngang rộng hai ngàn năm trăm sáu mươi dặm, trong thành có vua Chuyển Luân Vương hiệu Dũng Quận đầy đủ thất bửu: kim luân, bạch tượng, ngựa xanh biếc, minh nguyệt thần châu, vợ ngọc nữ, chủ tạng thần, chủ binh đại tướng.

Vua cai trị cả bốn châu thiên hạ. Vua đã từng cúng dường quá khứ chư Phật phát tâm Vô thượng Bồ đề. Chánh hậu ngọc nữ cùng bảy muôn sáu ngàn thể nữ trong cung đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Vua có ngàn Thái Tử đều xinh đẹp, đủ hai mươi tám tướng tốt, sức lực mạnh mẻ, tánh nết nhơn hòa, cũng đều phát Bồ đề tâm.

Thuở đó đức Phật Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương đi đến thành Thanh Tịnh. Vua Dũng Quận cúng dường Phật và đại chúng Bồ Tát Thanh Văn những y phục, đồ uống ăn, thuốc men, đồ nằm, nhà cửa, giảng đường, tịnh xá, cùng vườn tược suối ao. Mỗi vị Tỳ Kheo, Vua sai hai người theo hầu hạ. Nhà vua cúng dường như thế trọn một ức năm.

*

Ngàn vị Vương Tử thường chí tâm cúng dường Phật và thích nghe kinh pháp, chẳng ưa ái dục, bỏ việc chơi đùa, vì chí tâm chẳng phóng dật, không bao lâu đều được năm thứ thần thông. Khi được thần thông rồi, ngàn Vương Tử bay vọt lên hư không tự tại vô ngại, bay khắp tất cả quận huyện, các thành các nước, nhẫn đến bốn châu thiên hạ. Đến đâu các Vương Tử cũng đều vì đại chúng mà tuyên thuyết kệ rằng:

Chư Phật hiện ra đời

Lâu xa khó gặp gỡ

Sanh làm người thế gian

Cũng là rất khó được.

Mọi người nên đồng chí

Đều tin thích nghe kinh

Trong trăm ngàn ức kiếp

Lại càng khó gặp gỡ.

Nay Như Lai Thế Tôn

Đã hiện ra trong đời

Muốn mọi người được độ

Nên nói những kinh pháp.

*

Chúng tôi gần bên Phật

Thưa thỉnh được dạy dỗ

Cầu trí huệ sáng suốt

Phụng hành lời Phật dạy.

Do thọ trì kinh pháp

Thoát khỏi các ác thú

Được thêm lớn căn lành

Ở nơi chỗ rất an.

Vì được nghe chánh pháp

Tiêu trừ các trần lao

Do được huệ đa văn

Nên được chơn chánh pháp.

Đem pháp đã được nghe

Tuyên dương vị cam lồ

Do đây hiện điềm lành

Đất chấn động sáu cách

Bố cáo cùng trời người

Chư Thiên đồng ca ngợi

Đồng thời rải hoa trời

Hoa kia đủ các loại.

*

Chúng sanh đều hợp đến

Số đông chẳng thể lường

Đấng chí tôn khai hóa

Đều được vào thánh đạo.

Đại chúng cúi đầu lạy

Nơi chơn đức Thế Tôn

Rồi đều đứng chắp tay

Cung kính hầu bên Phật.

Như Lai Thiên Nhơn Sư

Thấy rõ lòng đại chúng

Tùy thời nghi căn tánh

Đem kinh pháp dạy truyền.

Tất cả đại chúng kia

Được nghe pháp Phật dạy

Ba mươi sáu ức người

Đồng pháp tâm Vô thượng.

Lại có ba trăm ức

Người nghe chánh pháp âm

Thấy rõ tất cả pháp

Được pháp nhãn thanh tịnh.

*

Những người đó đều nhàm

Gia nghiệp cùng tục duyên

Ở trong pháp hội kia

Xuất gia tu học đạo.

Lại có vô số chúng

Ức tỉ triệu muôn người

Đến pháp hội nghe kinh

Quy y làm tín sĩ

Sau khi nghe kinh pháp

Cúi đầu lạy chưn Phật

Đồng chắp tay từ biệt

Lễ Phật trở về nhà.

Nầy Tịch Ý! Các vị Vương Tử đó cùng Chuyển Luân Vương xây dựng lầu đài bằng gỗ chiên đàn, cửa nẻo đều bằng châu báu. Vì muốn đến nghe pháp với đức Phật Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương, nên vua Dũng Quận khuyên bảo quyến thuộc trong cung cùng đại thần bá quan và nhơn dân già trẻ: Mọi người nên biết rằng thân người khó dược, gặp Phật ra đời lại cáng khó, nay chúng ta nên đến lễ kính đức Phật để được nghe kinh pháp.

*

Nhà vua cùng các Vương Tử, phu nhơn, thể nữ, các quan và nhơn dân vào ngồi trong lầu hương, trổi nhạc đờn ca, đồng đem theo nhiều thứ hoa hương, y phục, tràng phan, bảo cái để cúng dường Phật. Lầu hương như chim phụng hoàng bay lên hư không đến chỗ Phật ngự. Lầu hương bay nhiễu Phật bảy vòng rồi dừng lại một phía.

Vua Dũng Quận cùng đại chúng ra khỏi lầu hương đến lễ chư Phật và lễ Thánh chúng, nhiễu Phật bảy vòng, rồi ở trước Phật bạch rằng: Thế Tôn! Từ lâu chúng tôi đã được nghe tiếng Phật, nhưng vì việc nước quá nhiều dần dà đến nay mới được vào pháp hội thấy dung nhan Phật. Lòng chúng tôi không xiết hổ thẹn tự trách lấy mình. Ngưỡng mong đức đại từ lượng tình thương xót.

Đức Phật Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương  thấy vua cùng quyến thuộc đều có lòng thành thật muốn nghe pháp liền thuận theo tâm bịnh của họ mà ban tuyên chánh pháp.

*

Nầy Đại Vương! Muốn học Đại thừa chẳng trái thánh đạo phải thật hành bốn điều : Một là hết lòng tin Tam bảo, phụng thờ các bực Hiền Thánh, những điều chẳng nên làm phải tránh xa. Hai là chí tâm nghe kinh pháp,nghe rồi thọ trì. Ba là bỏ tánh kiêu căng ngạo mạn nhứt tâm cung kính các bực Hiền Thánh. Bốn là tinh tấn nhiếp thân khẩu ý thật hành hạnh lành. Nếu Đại Vương thuận theo bốn điều trên thời có thể tu học Đại thừa chẳng trái thánh đạo.

Nầy Đại Vương! Lại có bốn điều cần phải giữ gìn chớ phóng dật: Giữ gìn sáu căn thấy họa hại ái dục, hiểu tất cả thọ và tưởng, biết rõ vô thường, do nghiệp nhơn mà có mạng căn.

Nầy Đại Vương! Bồ Tát lại có bốn việc mà đạo pháp được sanh: Một là chẳng bỏ đạo tâm. Hai là cũng khuyên người khác phát tâm. Ba là chứa nhóm cội công đức để giúp đạo tâm, những pháp được nghe hiểu thấu nghĩa lý. Bốn là với tất cả Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, nhẫn đến bực Thinh Văn, Duyên Giác đều đem giáo pháp Đại thừa rộng lớn khuyến hóa tất cả.

*

Nầy Đại Vương! Do đây nên phải thường không phóng dật, kính tin Tam bảo, ưa thích vô lượng đạo pháp, vui nơi chánh pháp. Nếu được tin tấn tìm cầu đạo pháp, thời Đại Vương chẳng còn tham ưa những trần cảnh. Đại Vương nên biết rằng tham dục không có thời gian nhàm đủ, như người uống nước mặn càng uống càng khát. Gặp được bực Hiền Thánh khai thị mới biết hạn chế tham dục, mạng người rất ngắn vui ít khổ nhiều, có sanh tất có tử phải biết lo đời sau.

Nay Đại Vương cúng dường Như Lai, do công đức nầy được bốn điều lợi ích : đời đời giàu có đầy đủ, công đức phước báo không cùng không tận, được huệ sáng suốt vô lượng, biện tài vô ngại.

Lại sẽ có bốn điều lợi ích: nơi thân thật hành những điều công đức thanh tịnh, lời nói thanh tịnh đúng cấm giới, tâm niệm thanh tịnh học rộng không nhàm, được trí huệ sáng suốt thanh tịnh.

Lại có bốn điều lợi ích: đầy đủ phương tiện tu hạnh thanh tịnh dạy bảo chúng sanh vào nơi trí huệ, dùng nghiệp thanh tịnh  hàng phục quân ma, thệ nguyện thanh tịnh việc làm tương ưng với lời nói, chứa nhóm công đức được gặp chư Phật.

Vua Dũng Quận sau khi nghe đức Phật dùng pháp nghĩa khai thị, lòng vua vui đẹp liền cởi chuỗi ngọc đương đeo nơi cổ dưng lên cúng dường Phật. Vua thọ ngũ giới trọn đời tu tập phạm hạnh.

*

Phu nhơn và thể nữ nghe Phật thuyết pháp cũng đều vui vẻ tâm ý nhu hòa, đồng cởi chuỗi ngọc châu báu đeo trên thân để cúng dường Phật. Phu nhơn và thể nữ xin vua cho được xuất gia làm Sa Môn tu phạm hạnh. Vua liền cho phép.

Lúc đó vua Dũng Quận lạy chưn Phật đi nhiễu bảy vòng, rồi cùng các thể nữ, bá quan vào lầu hương, trong giây lát bay về nước Thanh Tịnh.

Đến ngày Rằm trăng tròn, nhà vua cùng quyến thuộc trong cung vào vườn hoa trổi nhạc đờn ca. Hai bà chánh phu nhơn, một là bà hiệu Bất Hành Bộ, một bà hiệu Vô Hư Tổn, sau khi tắm gội dùng hương thơm xông ướp y phục ngồi trên giường báu. Tự nhiên có hai hài đồng hiện ra ngồi kiết già trên gối của mỗi phu nhơn. Hai hài đồng này dung nhan xinh đẹp đủ hai mươi tám tướng tốt. Đồng thời trên hư không có trăm ngàn chư Thiên cất tiếng khen rằng: Hai vị hài đồng nầy một tên Pháp Ý, một tên Pháp Niệm, đều sẽ tu hành thánh pháp.

Pháp Niệm hài đồng ngồi trên gối của phu nhơn Bất Hành Bộ. Pháp Ý hài đồng ngồi trên gối của phu nhơn Vô Hư Tổn. Hai vị hài đồng đồng cất tiếng nói kệ rằng:

*

Nếu ai giữ thân mình

Phát được tâm Bồ đề

Những bực học sĩ nầy

Tạo nên phước đức lành.

Những người nầy từng gặp

Đức Như Lai ra đời

Thường có lòng vui mừng

Nhứt tâm cúng dường Phật

Vì sự nghiệp thần thông

Sớm được Phật cứu độ

Tiêu hết vòng sanh tử

Chứng tịch diệt vô sanh.

Nếu phát tâm Bồ đề

Giữ bền không quên mất

Vì cứu độ chúng sanh

Phá hoại vòng sanh tử.

Ở thế giới Thượng Phương

Cách đây vô lượng cõi

Thế giới kia có Phật

Hồng danh là Thời Tiết

Chúng tôi từ cõi kia

Muốn nghe pháp đến đây

Muốn thấy Phật Công Huân

Cùng quốc độ của Phật.

*

Lúc đó hai Ngài đồng rời khỏi gối của mẹ, thẳng đường đến chỗ Phật, đầu mặt lạy chân Phật rồi chắp tay đứng qua một bên. Nhà vua cùng Thái Tử, các phu nhơn và thể nữ đi trên hư không đến chỗ Phật đảnh lễ rồi chắp tay đứng qua một bên.

Lúc đó Pháp Ý bạch rằng: Ngưỡng mong Thế Tôn vì chúng tôi mà giảng thuyết đạo pháp.

Đức Phật Công Huân biết rõ tâm niệm của mọi người, đem phép nghĩa thâm diệu để khai thị: Tất cả pháp đều từ nhơn duyên hòa hợp mà sanh khởi, vốn không chủ tể, không tác giả, không tự tánh, cũng không nhơn duyên, tất cả pháp đều trống rỗng như hư không, không thể chấp lấy.

Đức Phật Công Huân dùng vô số phương tiện tuyên thị pháp nghĩa thâm diệu, làm cho bảy mươi sáu cai hai ức tỉ người chứng được nhu thuận pháp nhẫn.

Lúc đó vua Dũng Quận cùng các Thái Tử và quyến thuộc trọn bảy ngày đêm nhiễu Phật cúng dường, lễ tạ Phật đồng trở về cung.

Một hôm vua Dũng Quận ngồi yên tự nghĩ rằng: Các con của ta đều phát tâm Bồ đề. Nay nên thử xem Vương Tử nào sẽ chứng đạo Vô thượng trước nhứt.

*

Nhà vua bèn bảo thợ làm bình bằng thất bảo để trên đài cao bốn mươi chín thước. Nhà vua truyền ngàn Thái Tử mỗi người biên danh hiệu mình trên thẻ bằng thất bửu để vào bình. Mọi người trọn bảy ngày đêm dùng các hương hoa cúng dường bình thất bửu. Qua bảy ngày, nhà vua đem bình thất bửu để trên án vàng bảo ngàn Thái Tử rút thẻ.

Lúc đó Thái Tử Tịnh Ý được thẻ đệ nhứt, cùng lúc ấy cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách, tất cả kỹ nhạc tự nhiên hòa tấu .

Thuật đến đây, đức Phật bảo Tịnh Ý Bồ Tát: Nầy thiện nam tử! Thái Tử Tịnh Ý, con của nhà vua Dũng Quận thuở quá khứ kia chính là đức Câu Lưu Tôn Như Lai. Thái Tử kế hiệu Ly Danh chính là đức Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai. Thái Tử thứ ba tên Tịch Căn chính là Ca Diếp Như Lai. Thái Tử thứ tư tên Nhứt Thiết Khổ Lợi chính là thân của ta, Thích Ca Mâu Ni Phật hiện nay.

Thái Tử thứ năm tên Vũ Thất chính là Di Lặc Như Lai. Thái Tử thứ sáu tên Minh Nguyệt Châu Phục sẽ là Phật Sư Tử. Thái Tử thứ bảy sẽ là Phật Diệu Anh. Tuần tự như vậy lần lần đến vị Thái Tử rút được thẻ thứ chín trăm chín mươi chín, sau đây sẽ thành Phật hiệu là Vô Lượng Đức Bửu Xưng. Thái Tử tên Ý Vô Lượng rút được thẻ cuối cùng sẽ thành Phật thứ một ngàn trong một ngàn đức Phật ở hiền kiếp nầy hiệu là Lâu Chí Như Lai.

*

Nầy Tịch Ý! Sau khi rút thẻ, ngàn Thái Tử cùng nhau vui cười và nói rằng sau nầy tôi sẽ thành Phật, sẽ hàng phục quân ma, chuyển đại pháp luân, cứu độ vô lượng chúng sanh.

Lúc đó Thái Tử Ý Vô Lượng thấy mình rút được thẻ sau rốt, sẽ thành Phật cuối cùng, trong lòng sầu não tự gieo mình xuống đất lập thệ rằng : Đạo pháp của chư Phật chẳng thể nghĩ lường, chúng sanh giới cũng là vô hạn, chí nguyện của tôi cũng bất tư nghì. Tôi nguyện khi các anh tôi thành Phật giáo hóa đệ tử, thọ mạng dài ngắn, thánh chúng nhiều ít, lúc tôi thành Phật cũng đồng như vậy.

Nếu lời nguyện của tôi trên đây sau nầy được đúng như vậy, xin cõi Đại Thiên vì tôi mà hiện điềm lành. Thái Tử Ý Vô Lượng vừa lập thệ xong, Đại Thiên thế giới liền chấn động sáu cách, trời rưới các thứ hoa, tất cả nhạc khí tự nhiên hòa tấu. Giữa hư không có tiếng khen rằng : Sẽ được như nguyện, về sau nầy thành Phật hiệu là Lâu Chí Như Lai Đẳng Chánh Giác.

Thái Tử Ý Vô Lượng sau khi phát nguyện, được thấy điềm lành cùng nghe tiếng ca ngợi giữa hư không, liền nói kệ rằng:

*

Đạo pháp của chư Phật

Đồng như cõi hư không

Ý giác dường như huyễn

Chúng sanh giới vô tận

Phát nguyện hiện điềm lành

Giới cấm thành thanh tịnh

Các Ngài nên lóng nghe

Lời thệ nguyện của tôi.

Nầy Tịch Ý! Vương Tử Ý Vô Lượng sẽ là vị Phật cuối cùng trong Hiền Kiếp hiệu Lâu Chí Như Lai. Cớ sao hiệu là Lâu Chí ? Vì lúc Vương Tử rút nhằm thẻ thứ một ngàn tự cảm thương buồn khóc, gieo mình xuống đất chí thành phát nguyện, do đó nên khi thành Phật hiệu là Lâu Chí.

Nầy Tịch Ý! Ông xem chư Bồ Tát thiện quyền phương tiện, thành tựu giới hạnh phát nguyện rộng lớn đi khắp trong tam giới không lúc nào ngừng nghỉ. Lâu Chí Như Lai riêng một mình giáo hóa chúng sanh cùng ngàn Phật ra đời chỗ độ chúng sanh đồng nhau không khác.

*

Nầy Tịch Ý! Hai vị Vương Tử nhỏ hơn hết trong ngàn vị Vương Tử tự lập thệ nguyện. Vương Tử Pháp Ý nguyện rằng : Lúc các Vương huynh thành Phật, tôi sẽ làm Kim Cang Lực Sĩ hộ trì chánh pháp bí yếu của Như Lai.

Vương Tử Pháp Niệm phát nguyện rằng: Lúc các Vương huynh thành Phật, tôi sẽ là người thỉnh mời và hộ trợ chư Phật chuyển pháp luân.

Nầy Tịch Ý !Vua Dũng Quận là tiền thân của Định Quang Như Lai. Ngàn Vương Tử là tiền thân của ngàn đức Phật trong Hiền Kiếp: từ Phật Câu Lưu Tôn thứ nhứt đến Phật Lâu Chí thứ một ngàn.

Vương Tử Pháp Ý chính là Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đây. Vương Tử Pháp Niệm hiện nay là Thức Kỳ Phạm Thiên.

Phu nhơn, thể nữ trong cung vua thuở trước là những người đến dự pháp hội hôm nay.

Những người ngày trước được các Vương Tử khuyên xuất gia làm Sa Môn và những người được các Vương Tử giáo hóa, trong Hiền Kiếp này họ sẽ lần lượt thọ ký thành Phật.

Nầy Tịch Ý! Ông xem chư Bồ Tát chí thành phát tâm công đức không bao giờ mất. Chư Bồ Tát sẽ được đầy đủ mười trí lực viên mãn hạnh nguyện của mình. Do đây nên có Bồ Tát nào muốn được sớm thành Phật phải học đòi theo hạnh nguyện của ngàn Vương Tử Bồ Tát, siêng năng phụng hành Phật đạo.

*

Những gì là Phật đạo? Chẳng nên có tâm tổn hại chúng sanh, thêm lớn lòng từ thật hành lục độ, thường tu phạm hạnh, tu tập bốn ân, thật hành các phẩm trợ đạo đầy đủ thần thông, phương tiện quyền xảo để trọn nên cội công đức. Các hạnh trên đây chính là Phật đạo.

Nầy Tịch Ý! Đạo đó tâm thanh tịnh thì thấu đạt bổn tánh. Đạo đó hòa nhã chí ý an ổn. Đạo đó chất phác mà không dua nịnh. Đạo đó rộng khắp không chỗ chướng ngại. Đạo đó bình đẳng không lòng bè đảng thiên lệch. Đạo đó vô úy chẳng phạm các điều ác. Đạo đó giàu có Bố thí ba la mật. Đạo đó đầy đủ giới ba la mật. Đạo đó chẳng tranh luận được Nhẫn ba la mật.

Đạo đó lìa chấp trước thành Tinh tấn ba la mật. Đạo đó không tán loạn là Thiền định ba la mật. Đạo đó khéo quyết trạch là Bát Nhã ba la mật. Đạo quy về nơi trí huệ của mình phụng hành đức đại từ. Đạo đó chẳng có ý vạy vò đến nơi đại bi. Đạo đó cảm thọ vui vẻ thật hành lòng đại hỷ. Đạo đó trụ nơi vi diệu đến bực đại xả. Đạo đó trừ các khổ não, diệt bỏ những vọng tưởng tham hại sân hận. Đạo đó đến chỗ an lành không có lòng nguy hại.

*

Đạo đó giáo hóa kẻ khó đều phục dứt trừ sự đắm mê nơi sắc, thinh, hương, vị, xúc. Đạo đó hàng phục ma vương cùng quyến thuộc của ma khiến họ bỏ tâm ngạo mạn và trừ dẹp những giặc oán thù. Đạo đó tiêu trừ các ấm các nhập, không chỗ chấp trước. Đạo đó bỏ việc ma, ở trong trần lao mà được tự tại. Đạo đó đem tâm hướng về Vô thượng, lìa tâm niệm Nhị thừa.

Đạo đó huân tập các công hạnh thành trí giác bình đẳng. Đạo đó ngự nơi đại bửu tòa thuận nhứt thiết trí. Đạo đó thường phân biệt trí huệ sáng suốt vô ngại. Đạo đó tuyên thị hạnh lành nhiếp các thiện hữu. Đạo đó bỏ hầm hố tiêu các Kiết sử. Đạo đó bỏ trần lao vượt khỏi sự sân hận tranh đấu. Đạo đó về nơi an ổn hết những điều quấy ác. Đạo đó về nơi cát tường hướng đến nghiệp Niết bàn.

Trên đây là Bồ Tát thật hành ba mươi hai điều Phật đạo. Trụ nơi Phật đạo nầy, Bồ Tát sẽ được mau thành quả Vô thượng Bồ đề.”

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Bồ Tát được Phật Thọ Ký

“…Bấy giờ trong chúng hội có các Bồ Tát nghĩ rằng Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nầy bao giờ thành Phật? Lúc ông ấy thành Phật hiệu là gì? Quốc độ ấy tên gì? Công đức nghiêm tịnh thuộc về loại gì? Thành tựu chúng Bồ Tát thế nào?

Đức Thế Tôn biết tâm niệm của chư Bồ Tát liền mỉm cười. Vô số ức trăm ngàn tia sáng từ miệng đức Phật phóng ra chiếu thấu vô hạn thế giới mười phương che ánh sáng của mặt trời mặt trăng, trùm cung điện của ma. Những tia sáng ấy trở về nhiễu vòng quanh đức Phật vô số vòng rồi từ đỉnh đầu đức Phật mà thâu vào.

Tịch Ý Bồ Tát liền đứng dậy trịch vai áo phía hữu chắp tay lễ Phật, nói kệ ca ngợi để hỏi ý cười của đức Phật :

“ Cao vọi như núi vàng

Diệu quang sạch bụi trần

Tâm Phật vững vắng lặng

Như mặt trời trên không

Tia sáng ấy rất sáng

Tiêu trừ các tối tăm

Cớ chi hiện như vậy

Xin Thế Tôn giải bày

*

Sạch sẽ như hoa sen

Mọc ở trong bùn sình

Gốc cọng ở trong nước

Lớn lên không cấu nhơ

Công đức rất thơm tho

Ý niệm càng rộng xa

Chỉ nên an nhiên nói

Cớ chi lại vui cười

Tâm trí Phật an ổn

Vắng lặng và nhu hòa

Lòng từ càng thêm lớn

Tiêu trừ những cấu uế

Dùng ánh sáng trí huệ

Trừ bỏ các tối tăm

An trụ như hoa sen

Vứt bỏ các hồ nghi

Thêm thương tu đạo tràng

Phụng hành được tự tại

Miệng Phật phóng quang minh

Khô cạn các ái dục

Khai hóa các chúng sanh

Cho mắt họ sáng sạch

An trụ tiêu nghịch tặc

Trừ bỏ những tội lỗi

Khắp tất cả chúng hội

Chư Thiên và mọi người

Ngưỡng nhìn tướng mạo Phật

Có chi Phật vui cười ?“.

*

Đức Phật bảo Ngài Tịch Ý Bồ Tát: Ông có thấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ ấy chăng?

Ngài Tịch Ý Bồ Tát thưa: Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thấy ông ấy .

Đức Phật dạy : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ sẽ cúng dường chư Như Lai ở Hiền Kiếp, hộ trì chánh pháp, khai thị lợi ích vô lượng chúng sanh.

Từ thân ấy chết, ông ấy sẽ sanh về nước Diệu lạc của đức Phật A Súc. Từ đó về sau gặp vô số chư Phật, tịnh tu phạm hạnh.

Qua khỏi số kiếp ấy, ông ấy chứa nhóm công đức sẽ thành Phật hiệu Kim Cang Bộ Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cõi nước tên Phổ Tịnh. Kiếp hiệu Nghiêm Tịnh. Cõi nước Phổ Tịnh hiệp bảy báu làm thành, nhơn dân giàu vui đông đảo như cung trời Đâu Suất. Cõi nước ấy không có ba ác đạo và tám chỗ nạn, trời và người chẳng riêng biệt, tất cả đều mộ Phật đạo vi diệu. Cõi ấy không có hai thừa, không có tên Thanh Văn, Duyên Giác, thuần là Bồ Tát.

*

Đức Kim Cang Bộ Như Lai tuyên thuyết pháp Đại thừa bất thối chuyển. Chúng Bồ Tát ở cõi Phổ Tịnh đông chẳng thể tính đếm hạn lượng được. Cõi ấy không có người tánh ác ganh ghét phá giới tà kiến. Người cõi ấy mến thích Phật Pháp, tâm tánh hiền hòa , đều đủ hai mươi tám tướng tốt trang nghiêm thân thể.

Đức Kim Cang Bộ Như Lai tại thế thọ tám tiểu kiếp, thường vì chúng hội trời người thuyết pháp, thân phóng quang minh chiếu khắp cõi nước. Các hàng trời người được quang minh Phật chiếu đến đều được giải quyết các điều nghi khen ngợi chánh pháp, về theo đức Phật. Mọi người nghĩ rằng tôi phải đến chỗ Phật để học hỏi kinh điển. Có người dùng thần thông của mình đi đến chỗ Phật. Có hàng hữu học nương oai thần của Phật mà đến.

Đức Phật Kim Cang Bộ ở trên hư không cách mặt đất trăm ngàn nhẫn tuyên cáo pháp âm khắp mười phương làm vui đẹp tất cả những người đến dự hội. Chỉ tuyên pháp Đại thừa Vô thượng đại đạo cho chư Bồ Tát.

*

Cõi nước Phổ Tịnh ấy không một ai chống báng lời giáo huấn của đức Phật.

Cõi nước ấy không có vua chúa, chỉ có đức Phật Thế Tôn là vị Pháp Vương.

Ở cõi nước ấy, tất cả nhơn dân đều có trí huệ, không chấp ngô ngã, không có ngã sở, chẳng làm chủ nhà ruộng riêng.

Do lòng từ xót thương của đức Phật, chiều tối người cõi nước ấy thấy đức Kim Cang Bộ Như Lai hiện thân tượng đắp y mang bát đứng trước nhà mình, liền tự nghĩ đức Như Lai thương tôi muốn đến nhà tôi thọ trai. Đêm ấy họ sắm sửa thức ăn, trần thiết ghế bàn. Sáng hôm sau đến giờ ngọ trai, đức Phật và Thánh chúng đến nhà họ thọ trai xong, sau khi rửa tay, đức Phật vì người nhà thí chủ mà thuyết kinh pháp. Thí chủ ấy được pháp bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh Giác. Thuyết kinh xong đức Phật trở về tinh xá.

*

Nếu đức Phật ngồi yên nơi tịnh thất, chư Bồ Tát cõi ấy đều theo pháp tam muội của mình đã được mà tu tập.

Nầy thiện nam tử! Cõi nước của đức Phật Kim Cang Bộ có công đức trang nghiêm thanh tịnh thù đặc dường ấy ».

Lúc đức Thế Tôn nói lời thọ ký cho Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, trong chúng hội có hai vạn người phát tâm Vô thượng Bồ đề phát nguyện sanh về cõi nước ấy.

Đức Phật thọ ký rằng lúc đức Phật Kim Cang Bộ thành đạo, trong đại chúng đây ai nguyện được thấy thì đều sẽ được sanh về cỏi Phổ Tịnh ấy, và sẽ được đức Phật ấy thọ ký Vô thượng Bồ đề.

Nghe đức Phật thọ ký, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ vui mừng hớn hở dồi chày kim cang đang cầm lên hư không. Liền đó khắp cõi Đại Thiên chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu mươi phương, hoa trời tuôn xuống như tuyết rơi, các thứ âm nhạc tự nhiên trổi lên.

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Bồ Tát: Tiền thân là Dũng Lực Bồ Tát

“…Vua A Xà Thế tiến lên bạch đức Phật: Bạch đức Thế Tôn! Hôm trước tôi từng họp quần thần tham nghị. Lúc ấy có các Tỳ Kheo đến chỗ Thái Tử tuyên bố rằng: Hôm nay đức Thế Tôn qua đến nước Khoáng Dã Quỷ Vương tại cung điện Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thọ trai.

Bạch đức Thế Tôn! Nghe được lời tuyên bố ấy, tôi cho là rất lạ lùng chưa từng có. Chư Phật Thế Tôn thiệt chẳng thể nghĩ bàn mới có thể ban đức đại bi thương xót cứu vớt khắp cả chúng sanh dường như hư không, nên mới ngự đến cung điện Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tại nước Khoáng Dã Quỷ Vương. Đại nguyện của đức Phật không thể ví dụ được, không có lời nói hết được.

Nếu có ai được đức Như Lai giảng dạy, không ai là chẳng được an vui lợi ích.

Bạch đức Thế Tôn! Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ vun trồng cội công đức thế nào mà được biện tài to lớn ấy ? ».

Đức Phật dạy: Nầy Đại Vương! Giả sử mười phương đều như số cát sông Hằng, mỗi mỗi hột cát còn có số hạn, chư Phật được Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ gần gũi cúng dường không thể tính đếm được, do đó mà Lực Sĩ ấy được đại biện tài như vậy.

*

Nầy Đại Vương! Vô ương số kiếp quá khứ có đức Phật hiệu là Tức Ý Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, thế giới tên là Tuyển Chủ, kiếp hiệu là Bất Di.

Đức Phật Tức Ý ấy thuần giáo hóa chúng Bồ Tát đều làm cho tinh tiến cả.

Lúc ấy có Bồ Tát hiệu là Dũng Lực lễ Phật Tức Ý mà bạch rằng:

Như chỗ tôi lãnh hội ý nghĩa của đức Phật đã dạy, nếu có Bồ Tát nào nghĩ rằng tôi sẽ chóng đến đạo Vô thượng thành tối chánh giác. Bồ Tát nào nghĩ như vậy thì gọi là giải đãi. Tại sao? Bồ Tát ấy chẳng tinh tiến nhàm sợ sanh tử. Nếu có Bồ Tát thấy sanh tử họan nạn thì thấy được kiết sử triền phược, chẳng nhập Niết bàn chỉ hóa độ chúng sanh, thì mới thành tối chánh giác.

Tại sao vậy?

Bạch đức Thế Tôn! Pháp của Bồ Tát là siêng tu tập đạo hạnh khắp trong sanh tử khai đạo lợi ích vô lượng chúng sanh cho họ nhập vô dư Niết bàn, mà cũng không chỗ được giáo hóa.

Vì thế nên, bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát hạnh phải trọng sanh tử, chẳng kính nhập Niết bàn. Bồ Tát hạnh trọng sanh tử rồi phụng thờ vô lượng chư Phật, khai đạo lợi ích vô lượng chúng sanh, nghe học vô số pháp, nhập vào tâm niệm của chúng sanh, chí nguyện sở hành kính hạnh Niết bàn, trọng các quán hạnh.

*

Nếu thấy có Bồ Tát sợ sanh tử khổ hoạn thích hạnh Niết bàn, thì nên quan niệm rằng: Bồ Tát nầy chắc là đọa lạc, vì bỏ mất hạnh Như Lai, có lỗi với chúng sanh. Sao gọi là Bồ Tát mà chẳng thuận theo hạnh Bồ Tát lại thích Thanh Văn địa, Duyên Giác địa, đây đáng gọi là không có hạnh Bồ Tát, là hạnh Thanh Văn.

Tại sao vậy?

Hạnh của hàng Thanh Văn sợ khổ hoạn sanh tử. Còn Bồ Tát đi trong vô lượng sanh tử mà chẳng bị ràng buộc.

Đức Tức Ý Như Lai khen Dũng Lực Bồ Tát rằng:

Lành thay! Lành thay! Lời nói ấy rất hay, ngôn giáo thuần thục. Bồ Tát hành đạo bỏ sự an vui của chính mình mà chẳng bỏ người khác, thường xét lỗi mình mà chẳng tìm lỗi người.

Dũng Lực Bồ Tát lại bạch:

Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát hạnh?

Đức Phật Tức Ý dạy:

*

Nầy thiện nam tử! Tự chánh lấy việc làm của mình mà vì chúng sanh tuyên nói sự thành bại khổ nạn sanh tử. Chịu lấy vô lượng khổ hoạn của sanh tử mà không khiếp sợ. Chẳng thích bực Thanh Văn và bực Duyên Giác mà chuyên tu tập việc làm của Bồ Tát. Chẳng luyến thiền định, ở trong tam giới biết rõ thiền định. Biết rành các ác đạo, tu tập các môn phương tiện. Biết hết cả công đức thiền định trí huệ giải thoát chẳng cùng tận. Phát trí huệ vô sanh, vì người mà ban tuyên tất cả pháp bổn lai không có, trí cũng vô sở đắc.

Biết các chúng sanh mà không có ngô ngã. Dùng trí huệ khai hóa tất cả chúng sanh cho họ hiểu các pháp tịch diệt. Thọ trì các pháp thông các Phật độ. Biết tất cả như hư không, Phật quốc thanh tịnh, trí huệ sáng sạch. Do trí huệ thấu suốt tất cả Pháp không tăng không giảm, mà dùng tướng hảo trang nghiêm trí huệ vô sở đắc. Nhơn đó mà tuân thờ tất cả cội công đức chẳng quên bỏ, ít não bớt việc. Với các chúng sanh, thường làm việc cứu vớt hoạn nạn.

Thân tâm đạm bạc chứa công bồi đức chẳng chán nhàm. Phát khởi thiền quán thấu rõ chánh định nhứt tâm. Phương tiện thấu suốt các pháp thâm diệu. Nếu đem tuyên bố bao nhiêu giáo pháp, phân biệt quán hạnh thành tựu quả đức. Khai hóa luật Thanh Văn, Duyên Giác. Mến thích công hạnh giải thoát của đức Như Lai, thật hành Bồ Tát hạnh, thị hiện công việc của đức Như Lai làm.

Đó là Bồ Tát hạnh vậy.

*

Đức Phật phán tiếp: Nầy Đại Vương! Bấy giờ Dũng Lực Bồ Tát nghe đức Tức Ý Như Lai dạy pháp ấy, lại bạch rằng:

Bạch đức Thế Tôn! Thiệt rất khó chưa từng có, nay đức Thế Tôn tuyên dạy công hạnh mà chư Bồ Tát phải thiệt hành.

Bạch đức Thế Tôn! Cứ theo chỗ tôi hiểu ở nơi lời đức Phật dạy thì thiện quyền phương tiện là pháp của Bồ Tát thiệt hành.

Bạch đức Thế Tôn! Như hư không chứa đựng tất cả vạn vật mười phương, vì tất cả hình sắc mà hiển hiện thể của nó chẳng thể tính lường, hiện bao trùm tất cả những loại có hình, với hư không vẫn không chướng ngại.

Bạch đức Thế Tôn! Cũng vậy, do thiện quyền phương tiện mà chư Bồ Tát được tự tại ở nơi tất cả pháp. Những pháp đã được học và pháp chưa được học, pháp phàm phu và pháp Phật đều do nơi đó.

Lại như luồng lửa lớn đi đến đâu, cỏ cây đều bị cháy.

Cũng vậy, Bồ Tát tự tại đi trong các pháp. Dùng lửa trí huệ đốt cháy ngu si của tam giới tối tăm;

Lại như kẻ trượng phu nổi giận hung làm tổn hại người khác chẳng kể khốn nạn.

Cũng vậy, Bồ Tát dùng thiện quyền phương tiện Bát Nhã ba la mật tự tại dứt trừ trần lao của tất cả chúng sanh.

Lại như thủy thanh châu được để vào nước đục thì nước liền trong suốt.

*

Cũng vậy, Bồ Tát dùng thiện quyền phương tiện làm tiêu tan tất cả trần lao ba thứ cấu trược.

Lại như thuốc giải độc tên là tiêu trừ, nếu đem để vào tất cả chất độc, thì tất cả chất độc đều tiêu tan hẳn. Cũng vậy, Bồ Tát dùng thiện quyền phương tiện dạo đi khắp chỗ họa nạn tam giới, cầm trí quyền xảo dứt trừ trần lao ái dục của chúng sanh.

Bạch đức Thế Tôn! Vì thế nên biết rằng thiện quyền phương tiện là hạnh tự tại nơi tất cả pháp của Bồ Tát.

Này Đại Vương! Lúc Dũng Lực Bồ Tát nói pháp ấy, có vô số người phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Đại Vương muốn biết Dũng Lực Bồ Tát thuở xưa ấy là ai chăng ? Chánh là Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ ngày nay vậy.

Bồ Tát này vững mạnh tinh tiến, mặc áo giáp hoằng thệ vời vợi như vậy, cúng dường vô số chư Phật rỡ rỡ dường ấy chẳng gì ví dụ được.”

Thần lực Chày Kim Cang của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Bồ Tát

“…Khi ấy vua A Xà Thế nghĩ rằng chày kim cang của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nặng bao nhiêu? Ta có sức rất khỏe chẳng biết có cầm được chăng?

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ biết tâm niệm của nhà vua bèn để chày kim cang xuống đất. Vừa lúc Lực Sĩ để chày xuống đất, cả cõi Đại Thiên chấn động sáu cách.

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với vua A Xà Thế: Nhà vua thử cầm lên xem .

Vua A Xà Thế có sức mạnh lực sĩ, liền tận lực dở lên, những vẫn chẳng lay động được chày kim cang mảy may.

Nhà vua lấy làm lạ chưa từng có, tiến lên bạch đức Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Thân tôi có sức khỏe đại lực sĩ lại mặc áo giáp rất quý lạ. Tôi có thể bắt voi lớn nắm vòi ném thân voi đến đâu cũng được. Sao hôm nay dở chày kim cang nhỏ nầy lại chẳng nhúc nhích chừng lông tóc. Sao lại có sự lạ như vậy?

Đức Phật dạy: Nầy Đại Vương! Chày kim cang nầy trọng ở nơi đức, chẳng thể dùng sức mạnh mặc áo giáp và mạnh ném voi lớn mà dở lên được.

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Thiên Đế Thích: Thưa Ngài Kiều Thi Ca! Ngài có danh hiệu là Chấp Trì Kim Cang. Ngài thử cầm chày kim cang nầy lên xem sao.

*

Lúc ấy Thiên Đế dùng thần lực vô hạn, hiển tột thần thông muốn cầm chày Kim Cang ấy lên mà vẫn chẳng cầm lên được.

Thiên Đế tiên lên bạch đức Phật: Bạch đức Thế Tôn! Tôi cùng chư Thiên đánh nhau với A Tu La. Tôi dùng một ngón tay ném A Tu La Duy Chất như ném một viên đạn nhỏ, làm cho A Tu La phải bỏ chạy.

Nay chày kim cang này nhỏ xíu như vậy sao tôi lại cầm lên không nổi? 

Đức Phật dạy: Nầy Kiều Thi Ca! Chày kim cang nầy trọng nơi đức. Chẳng nên đem so sánh với thân lớn ba trăm ba mươi sáu muôn dặm của A Tu La.

Nầy Kiều Thi Ca ! Ý Ngài nghĩ sao? Núi Tu Di có nặng chăng?

Thiên Đế thưa: Bạch đức Thế Tôn! Núi Tu di rất nặng.

Đức Phật nói: Nầy Kiều Thi Ca! Giả sử có đại lực sĩ thần lực vô lượng tay mặt cầm chày kim cang nầy để bên núi Tu Di. Lực sĩ ấy đứng vào giữa cất hai thứ lên, núi Tu Di vẫn còn hơi nhẹ chẳng bằng trọng lượng của chày kim cang này.

Nầy Kiều Thi Ca! Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nếu dùng chày kim cang có thể đập núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi và núi Kim Cương làm cho nát ra như bụi. Dầu như vậy, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ còn chưa hiện hết thần lực.

Bấy giờ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Ngài Đại Mục Kiền Liên: Thưa Ngài Đại Mục Kiền Liên ! Đức Thế Tôn khen Ngài thần thông đệ nhứt. Nay Ngài thử cầm chày kim cang nầy lên xem sao?

*

Ngài Đại Mục Kiền Liên có đại thần lực dời được bốn biển lớn. Ngài phấn khởi thần thông muốn cầm chày kim cang lên làm rúng động cả cõi Đại Thiên nhưng vẫn không lay động được chày kim cang ấy chừng lông tóc.

Rất lấy làm lạ, Ngài Đại Mục Kiền Liên đến bên chưn Phật bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn! Đức Phật từng khen thần thông của tôi. Tôi từng thử thần thông của mình làm rung động cả cõi Đại Thiên như khều cái bát nhỏ ném qua cõi nước khác. Tôi từng hàng phục khai hóa Nan Đầu Hòa Nan Long Vương. Tôi còn có thể nuốt khúc gỗ lớn bằng núi Tu Di. Vừa tác ý là tôi có thể nắm kéo mặt trời mặt trăng đứng lại, lấy tay rờ mó. Như vậy mà nay tôi không thể lay động được chày kim cang nhỏ xíu nầy chừng lông tóc ! Phải chăng tôi đã mất thần thông rồi?

Đức Phật dạy: Ông chẳng mất thần thông. Nầy Đại Mục Kiền Liên! Thần thông của Bồ Tát có oai thế rất lớn. Thần thông của Thanh Văn và Duyên Giác chẳng bằng được.

Giả sử những núi Tu Di của hằng hà sa thế giới hiệp lại làm một núi Tu Di còn có thể lay động được, chớ chẳng thể lay nổi chày kim cang nầy.

Bồ Tát lập  hạnh, oai lực chẳng thể nghĩ bàn vòi vọi như vậy.

*

Ngài Đại Mục Kiền Liên được chưa từng có, bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát Đại Sĩ có được oai lực lớn, như Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đây cầm chày kim cang.

Bạch đức Thế Tôn! Sức lực của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đây là do cha mẹ sanh, hay là do thần thông? 

Đức Phật dạy: Đó là sức mạnh do cha mẹ sanh. Nếu Bồ Tát mà dùng sức mạnh thần thông thì có thể thị hiện thấu khắp trên trời và thế gian.

Đức Phật bảo Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ: Ông nên cầm chày kim cang lên.

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ bước động cõi Đại Thiên, dùng tay mặt cầm chày kim cang lên ném thẳng vào hư không. Chày ấy ở trên hư không lộn quanh bảy vòng rồi rơi trở lại dừng ở trên tay hữu của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ.

Tất cả chúng hội đều được chưa từng có, đồng vòng tay lễ chưn đức Phật, đồng xướng lên rằng: Khó kịp, khó kịp! Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ có sức lực rất vi diệu. Cầu mong các chúng sanh đều được thế lực vô cùng như vậy…”

(Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Bồ Tát – Trích Kinh Đại Bảo Tích)

Tuệ Tâm 2021.

Sưu Tầm Bởi Tuệ Tâm Admin ( https://kinhnghiemhocphat.com/ )

Xem Thêm:   Vì sao chúng ta trôi lăn trong nhân quả luân hồi

32 lượt xem | 0 Bình luận
Nam Mô A Di Đà Phật - Pháp Giới là trang chia sẻ phật pháp, kinh phật, pháp âm, câu chuyện phật giáo. Mong góp chút sức lực bé nhỏ để giúp các bạn tiếp cận được đại trí thức của đức Phật. Đừng hỏi tôi là ai. Hãy chấp trì danh hiệu Phật, gieo duyên với Phật Pháp để giúp bạn an lạc.
Pháp Âm Thần Chú Tu Học Blog