Cận tử nghiệp đáng sợ vô cùng
Pháp Giới 11 tháng trước

Cận tử nghiệp đáng sợ vô cùng

Chúng ta thấy người tắt hơi thì cho là chết, nhưng sự thực không phải vậy. Tắt hơi chỉ là sự khởi đầu của tiến trình chết và cũng chính là cao điểm của cận tử nghiệp, vậy cận tử nghiệp là gì?

  • 10 chuyện nhân quả báo ứng có thật.
  • Sự thật về hạn Tam tai.
  • Hội Long Hoa là gì.
  • Cách thay đổi vận mệnh.
  • Âm đức là gì.
  • 10 chuyện Tâm linh có thật.
  • Bản nguyện niệm Phật – Trọng yếu đường tu thời Mạt pháp.
Cận tử nghiệp đáng sợ vô cùng
Cận tử nghiệp

Thế nào là cận tử nghiệp?

Cận tử nghiệp là nghiệp báo lúc sắp chết. Con người khi già yếu sắp chết, những nghiệp thiện ác từ kiếp nầy hoặc kiếp trước dồn lại, ảnh hưởng mạnh mẽ hơn lúc bình thường. Nếu là nghiệp thiện thì khiến cho người ấy vui vẻ hòa nhã hiền lương, mắt tai không lờ lãng, khi lâm chung xả báo an lành.

Như thuộc về nghiệp ác, thì kẻ đó trở nên nóng nảy, ưa buồn giận khó khăn, tâm trí lờ lẫn, lúc sắp chết đau yếu mê man. Còn nếu là người niệm Phật cầu vãng sanh, tất thần sắc tươi sáng, đẹp hơn lúc bình thời, môi đỏ, miệng cười tươi, an nhiên theo Phật về Tây Phương Tịnh Độ.

Cận tử nghiệp đáng sợ vô cùng

Trong đời kẻ tu thiện thì ít, làm ác lại nhiều, nên đa số người đến lúc lớn tuổi thường đổi tánh; những vị không hiểu lý nầy cho là “già hay sanh tật”. Lại do làm ác nhiều nên hiếm người có được cái phước ra đi an lành, đa phần là đớn đau, vật vã, hoặc tật bệnh dây dưa năm này qua tháng nọ, hoặc chịu các khổ nạn nước lửa, giao thông …mà đau đớn ra đi.

Người ta bảo ngày nay tuổi thọ con người ngày càng tăng, Tuệ Tâm tôi cũng nghĩ vậy, cho đến khi theo Thầy đi đặt máy niệm Phật tại các nghĩa trang, thì chao ôi: Nghĩa trang đa phần là mộ trẻ, người già chỉ chiếm 1/3 số mộ, kiếp nhân sinh vô thường quả thật là đau xót! 

*

Cận tử nghiệp đến là lúc người ta bị vây quanh bởi vô thiên lủng các hạng oan gia trái chủ đến đòi nợ, hoặc chúng hiện tướng người thân, hoặc hiện tướng quỷ ma hung ác để đưa ta đọa lạc chốn tam đồ. Ngoài ra cận tử nghiệp cùng với sự tan rã của tứ đại là một điều vô cùng kinh khủng, theo “Tạng thư sống chết” thì: Sự tan rã bên ngoài xảy ra khi các giác quan và tứ đại phân tán. Chúng ta thực sự kinh qua điều này như thế nào khi chết ?

Ðiều trước tiên chúng ta có thể ý thức là các giác quan ta ngưng hoạt động như thế nào. Nếu người đứng xung quanh giường ta đang nói chuyện, sẽ đến một lúc ta không thể nghe ra một lời nào. Ðây là dấu hiệu nhĩ thức đã ngưng hoạt động. Ta nhìn một vật trước mặt, mà chỉ có thể thấy hình dạng lờ mờ, không rõ chi tiết. Ðấy là dấu hiệu nhãn thức đã suy.

Và việc cũng xảy ra tương tự đối với các khả năng ngửi, nếm, sờ. Khi các giác quan không còn được cảm nhận một cách trọn vẹn, đó là giai đoạn đầu tiên của tiến trình tan rã. Bốn giai đoạn tan rã kế tiếp đi kèm với sự tan rã của bốn đại :

Cận tử nghiệp – Sự tan rã của Ðịa đại 

Thân xác chúng ta khởi sự mất hết sức mạnh. Chúng ta kiệt quệ, không còn chút năng lực nào. Không thể đứng lên, ngồi thẳng, hay cầm bất cứ vật gì. Ta không còn giữ được cái đầu của ta. Ta cảm thấy như mình đang té xuống, đang nhận chìm xuống đất, hay đang bị một sức nặng ghê gớm nghiền nát. Kinh điển mô tả như là trái núi khổng lồ đang ép xuống người ta, và ta đang bị nó nghiền nát.

Ta cảm thấy nặng nề, khó chịu trong bất cứ tư thế nào. Ta có thể yêu cầu đỡ ta lên, chồng gối cao lên, lấy hết mền trên người ra. Màu da của ta phai nhạt và một màu tái xanh xuất hiện. Má ta hóp lại, và những vết đen xuất hiện trên răng. Càng lúc ta càng thấy khó mở mắt nhắm mắt. Khi sắc uẩn phân tán, ta trở nên yếu đuối mong manh. Tâm ta giao động, nói nhảm, nhưng rồi lại chìm vào hôn trầm. 

Ðấy là những dấu hiệu địa đại đang rút vào thủy đại. Ðiều này có nghĩa rằng gió liên hệ đến địa đại đang trở thành ít có khả năng cung cấp một nền tảng cho ý thức và khả năng của thủy đại bây giờ rõ rệt hơn. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” xuất hiện trong tâm lúc đó là thấy một hình ảnh chập chờn.

Cận tử nghiệp – Sự tan rã của Thủy đại

Chúng ta khởi sự mất khả năng kiểm soát chất lỏng trong thân. Mũi ta bắt đầu chảy nước, và miệng rỏ nước miếng. Có thể có nước mắt chảy ra, và ta cũng có thể mất hết sự tự chế. Ta không thể nào di động cái lưỡi. Mắt ta khởi sự cảm thấy khô cạn trong lỗ mắt. Môi ta thụt vào, không còn chút sắc máu; miệng và cổ họng bế tắc. Những lỗ mủi ta lún vào, và ta cảm thấy rất khát nước. Ta run rẩy, co giật. Mùi tử khí bắt đầu phảng phất xung quanh.

Khi thọ uẩn phân tán, thì những cảm giác của thân yếu dần ; khi khổ khi vui ; lúc nóng lúc lạnh. Tâm ta đâm ra mờ mịt, bất mãn, cáu tức, và nóng nảy. Một vài kinh điển nói chúng ta cảm thấy như mình bị dìm trong đại dương hay cuốn trôi trong dòng nước lớn. Thủy đại đang tan rã vào hỏa đại, bây giờ hỏa đại thắng lướt và có khả năng nâng đỡ tâm thức. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là người sắp chết thấy một đám mờ như khói cuộn.

Cận tử nghiệp – Sự tan rã của Hỏa đại

Miệng và mũi chúng ta hoàn toàn khô cạn. Tất cả hơi ấm trong cơ thể bắt đầu mất dần, từ chân tay cho đến tim. Có thể có một luồng khói xuất từ đỉnh đầu. Hơi thở lạnh giá khi qua miệng và mũi. Ta không còn có thể uống hay tiêu hóa bất cứ thứ gì. Tưởng uẩn đang phân tán, và tâm ta lơ lửng giữa sáng suốt và mê mờ. Ta không thể nhớ được tên bà con, bè bạn, hay nhận ra họ là ai. Càng lúc ta càng khó nhận ra cái gì bên ngoài, vì âm thanh và cái thấy lẫn lộn.

Kalu Rinpoche viết : “Ðối với người sắp chết, kinh nghiệm bên trong là như thể bị nuốt chửng trong một ngọn lửa lớn, ở giữa một cái hỏa lò hừng hực, hay toàn thế giới đang bị thiêu đốt”. Hỏa đại đang tan vào phong đại, nên bây giờ nó không có thể làm nền tảng cho tâm thức được nữa, mà khả năng của phong đại thì rõ rệt hơn. Bởi thế dấu hiệu bí mật là những đóm sáng chập chờn trên một ngọn lửa mở ra, như những con đom đóm.

Cận tử nghiệp – Sự tan rã của Phong đại 

Càng lúc càng khó thở. Không khí dường như thoát ra ngõ yết hầu chúng ta. Chúng ta khởi sự thở hào hển. Nhưng hơi thở vào càng lúc càng ngắn và khó nhọc, hơi thở ra càng lúc càng dài. Mắt chúng ta trợn trừng lên, và chúng ta hoàn toàn bất động. Khi hành uẩn phân tán, tâm trở nên hoang dã, không biết gì về thế giới bên ngoài. Mọi sự trở nên một khối mờ mịt. Cảm giác liên lạc cuối cùng của chúng ta với hoàn cảnh vật lý đang tan mất.

Chúng ta khởi sự có những ảo giác và thấy các cảnh tượng: Nếu trong đời ta đã tạo nhiều nghiệp ác, ta có thể trông thấy những hình thù ghê rợn. Những ám ảnh và những giây phút kinh hãi của đời ta bây giờ quay lại, và có khi chúng ta cố la lên vì kinh hoàng. Nếu chúng ta đã sống đời có lòng tử tế xót thương, thì chúng ta có thể kinh nghiệm những cảnh thiên đường đầy hỷ lạc, và “gặp” những bạn bè thân yêu, hoặc những bậc giác ngộ. Với những người đã sống đời lương thiện, thì khi chết có sự an bình thay vì hãi sợ.

*

Kallu Rinpoche viết : “Kinh nghiệm nội tâm đối với người sắp chết là một ngọn cuồng phong quét sạch toàn thế giới, kể cả chính mình, một trận gió xoáy cuốn hút toàn vũ trụ”. Ðiều đang xảy đến là phong đại đang tan vào tâm thức. Những ngọn gió đều tập hợp lại trong “gió nâng đỡ đời sống” nằm ở tim. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là người chết thấy một ngọn đuốc hay đèn đỏ rực.

Hơi thở vào càng nông cạn, hơi thở ra càng sâu. Ở thời điểm này, máu tụ lại đi vào trong “kinh mạch của sự sống” nằm chính giữa tim ta. Ba giọt máu lần lượt tụ lại, gây nên ba hơi thở ra cuối cùng. Rồi thình lình, hơi thở chúng ta chấm dứt. Chỉ một chút hơi ấm còn ở lại nơi tim ta. Mọi dấu hiệu của sự sống không còn, và đây là điểm mà sự xét nghiệm lâm sàng cho là “chết”.

Nhưng những bậc thầy Tây Tạng nói đến một tiến trình bên trong vẫn còn tiếp diễn. Thời gian giữa sự ngưng thở và thời gian chấm dứt “hơi thở bên trong” được cho là “khoảng chừng bữa ăn”, tức khoảng 20 phút. Nhưng không có gì chắc chắn, và toàn thể tiến trình này có thể xảy ra rất nhanh…

Các dấu hiệu từ cận tử nghiệp báo hiệu luân hồi trong các nẻo

Chỉ cần nhìn hiện tướng của cận tử nghiệp, ta sẽ đoán biết được người mất sẽ tái sinh trong cảnh giới nào. Theo “Phật học tinh yếu”, Con người khi sắp chết, thân tâm hôn muội như ngủ mà không có chiêm bao. Lúc ấy minh liễu ý thức không hiện khởi, không thể biết được cảnh sở duyên của sáu chuyển thức, đó là tán-hữu-tâm cũng gọi sanh-tử-tâm. Bấy giờ do nghiệp lành dữ, thân phần lần lần lạnh, chỗ nào còn nóng sau rốt, là thần thức ra nơi đó.

1. Dấu hiệu đọa vào loài bàng sanh(súc sanh)

Người nào khi lâm chung, sắp đọa vào loài Bàng-sanh, thì có những tiên triệu như sau: 1. Thân mang bịnh nặng tâm mê mờ tán loạn như ở trong mây mù. 2. Sợ nghe danh hiệu Phật, không chịu ai khuyên bảo điều lành. 3. Ưa thích mùi cá thịt. 4. Quyến luyến vợ con, đắm đuối không bỏ. 5. Các ngón tay và chơn đều co quắp. 6. Cả mình toát ra mồ hôi. 7. Khóe miệng chảy ra nước. 8. Tiếng nói khò khè hoặc rít róng khó nghe. 9. Miệng thường ngậm đồ ăn.

2. Dấu hiệu đọa vào đường Ngạ Quỷ

Người nào khi lâm chung, sắp đọa vào đường Ngạ quỷ, thì có những tiên triệu như sau: 1. Thân mình nóng như lửa. 2. Lưỡi luôn luôn liếm môi. 3. Thường cảm thấy đói khát, ưa nói đến việc ăn uống. 4. Miệng hả ra không ngậm lại. 5. Tham tiếc tiền của, dây dưa khó chết. 6. Mắt thường trương lên mà không nhắm. 7. Đôi mắt khô khan như mắt chim gỗ. 8. Không có tiểu tiện nhưng đại tiện thì nhiều. 9. Đầu gối bên mặt lạnh trước. 10. Tay bên mặt thường nắm lại, tiêu biểu cho lòng bỏn sẻn. 11. Lúc tắt hơi hai mắt vẫn mở.

3. Dấu hiệu đọa vào đường Địa ngục

Người nào khi lâm chung, sắp đọa vào nẻo Địa-ngục, thì có những tiên triệu như sau: 1. Nhìn ngó thân quyến bằng con mắt giận ghét. 2. Đưa tay lên quờ quạng hư không. 3. Đi đại tiểu tiện không tự biết. 4. Thân thường có mùi hôi hám. 5. Nằm úp mặt xuống hoặc che giấu mặt mày. 6. Hai mắt đỏ ngầu. 7. Nằm co về bên trái. 8. Xương lóng đau nhức.

9. Thiện tri thức dù có chỉ bảo, họ cũng không tùy thuận. 10. Nhắm nghiền đôi mắt không mở. 11. Mắt bên trái hay động đậy. 12. Sống mũi xiên xẹo. 13. Gót chân đầu gối luôn luôn run rẩy. 14. Thấy ác tướng vẻ mặt sợ sệt mà nói không được, hoặc sảng sốt kêu la bảo là quỷ hiện. 15. Tâm thức rối loạn. 16. Cả mình giá lạnh, tay nắm lại, thân thể cứng đơ. (Kinh Thủ Hộ Quốc Giới)

4. Dấu hiệu tái sanh nơi cõi người

Người nào khi lâm chung, sẽ sanh lại cõi người, thì có những tiên triệu như sau: 1. Thân không bịnh nặng. 2. Khởi niệm lành, sanh lòng hòa dịu, lòng vui vẻ vô tư, ưa việc phước đức. 3. Ít sự nói phô, nhớ nghĩ đến cha mẹ vợ con. 4. Đối với việc lành hay dữ, tâm không lầm loạn. 5. Sanh lòng tịnh tín, thỉnh Tam bảo đến đối diện quy y. 6. Con trai con gái đều đem lòng thương mến và gần gũi, coi như việc thường. 7. Tai muốn nghe tên họ của anh em, chị em, bè bạn. 8. Tâm chánh trực không dua nịnh. 9. Rõ biết bạn bè giúp đỡ cho mình, khi thấy bà con săn sóc sanh lòng vui mừng. 10. Dặn dò giao phó các việc lại cho thân quyến, rồi từ biệt mà đi.

5. Dấu hiệu tái sanh nơi cõi Trời

Người nào khi lâm chung, sẽ sanh lên cõi trời, thì có những tiên triệu như sau: 1. Sanh lòng thương xót. 2. Phát khởi tâm lành. 3. Lòng thường vui vẻ. 4. Chánh niệm hiện ra. 5. Đối với tiền của vợ con không còn tham luyến. 6. Đôi mắt có vẻ sáng sạch. 7. Ngước mặt trông lên miệng mỉm cười, hoặc tai nghe thiên nhạc, mắt thấy thiên-đồng. 8. Không có những sự hôi hám. 9. Sống mũi không xiên xẹo. 10. Lòng không giận dữ.

6. Dấu hiệu Vãng sanh nơi cõi Tịnh Độ

Người nào lúc bình thời giữ giới niệm Phật không được tinh tấn khi sắp chết không có các tướng lành dữ, nhắm mắt đi xuôi như người ngủ; kẻ ấy nghi tình chưa dứt, sẽ sanh về nghi thành ở biên-phương Tịnh-độ. Người nào khi lâm chung biết ngày giờ trước, chánh niệm rõ ràng, tự tắm gội thay đổi y phục, hoặc thấy quang minh chiếu thân, hoặc thấy tướng hảo của Phật, các điềm lành hiển hiện, kẻ ấy sẽ sanh về cõi Tịnh-độ. (Kinh Thủ-Hộ-Quốc-Giới)

Chuyện về cận tử nghiệp

1. Đọa lạc vì ác nghiệp

Sách Phật học tinh yếu, tổ Thiền Tâm có ghi lại câu chuyện cận tử nghiệp thuộc về ác nghiệp:

“Thuở bút giả còn ở chùa Linh Thứu, tại xã Thạnh Phú, tỉnh Ðịnh Tường, có biết ông hương ấp Nghé. Ông nầy ưa ăn thịt chó, mỗi tháng trung bình độ sáu con, nên khi ông đi đâu thì chó sủa dồn đến đó, ai cũng đều biết. Khi ông đau sắp chết, thì tự chui xuống gầm giường nằm khoanh một góc, lâu lâu lại tru lên như chó.

Lúc ấy có người đồng bạn là chú năm Thiện đến thăm, hỏi: “Anh hương ấp làm chi lạ vậy? Thôi anh lên giường nằm, đừng để cho bà con chê cười!” Nói chưa xong, thì ông thình lình nhảy ra táp chú, hình trạng như con chó giận dữ cắn người, may nhờ chú năm lẹ làng tránh khỏi. Ðây là một việc tượng trưng cho Cận tử nghiệp thuộc về nghiệp ác.

2. Đọa làm heo vì một niệm bám chấp

Sách Báo ứng hiện đời ghi lại câu chuyện điển hình:

Có một nữ cư sĩ thọ Bồ tát giới là bà X, trì trai hơn 30 năm. Nửa đời sau của bả toàn lả ăn chay, lễ Phật. Sau khi bà qua đời, người nhà đến chùa mời sư Nhân Ba Thiết tụng kinh hồi hướng công đức cho bả. Đương nhiên ngài rất vui vẻ nhận lời.

Tối đó sư Nhân Ba Thiết bỗng thấy một cảnh tượng rất lạ: có một con heo nái, đẻ mười mấy heo con, lông toàn màu trắng. Trong số đó có duy nhất một con heo giữa lưng có một khoanh đen. Dù thấy vậy nhưng Nhân Ba Thiết không để ý lắm. Hôm sau ngưòi nhà bả X lại đến bái kiến Nhân Ba Thiết thưa rằng:

– Mẹ con ăn chay nhiều năm nay, đã thọ Bồ-tát giới, tâm lại rất tốt, vậy sau khi bà mất rồi, se sinh ve đâu? Chăng biết có về cõi cực lạc của Phật A Di Đà không?

Sư Nhân Ba Thiết đáp:

– Để tối nay ta xem cảnh mộng ra sao đã.

*

Đêm đó, Nhân Ba Thiết cũng thấy y hệt hôm trước, “Con heo đó” ở trong cái chuồng xây gạch nơi làng Ngư ôn gần đây, thấy rất rõ ràng. Ngày thứ ba anh con trai bà X đến hỏi thăm, Nhân Ba Thiết không tiện nói rõ, chỉ hỏi:

– Mẹ ngươi trước khi mất, có điềm gi không?

Con trai bà thưa:

– Dạ không, lúc gần đi thì bà hôn mê, không có trối trăn gì.

Nhân Ba Thiết nói:

– Thế thỉ không tốt lắm.

Rồi Sư nghĩ thầm: ‘Thông thường đệ tử Phật tu tinh tấn luôn có dự liệu, hiểu biết sáng suốt. Một người cả đời ăn chay như bà X, tâm tính tốt, ưa giúp người, lại siêng cúng dường chùa. Giây phút qua đời vì sao lại có thể đầu thai làm súc sinh chứ? Lý nào như vậy?” Sư Nhân Ba Thiết không tiện nòi gì với con trai bà X. Chỉ căn dặn:

– Anh hãy quay về điều tra, hỏi thăm cả nhà xem mẹ anh có nói gì trước khi mất không? Bởi vì trước lúc mất, bà vẫn có thời gian tĩnh, chắc chắn đã từng nói ra, từng nhắc đến điều gì đó, chăng hạn như những gì bà mong muốn thực hiện mà chưa làm được nên cứ ôm ấp mãi trong lòng. Anh hãy về nhà hỏi thử xem?

*

Anh con trai vâng lời về nhà điều tra. Mới biết buổi tối trước khi mất ba ngày, vợ anh đến chăm sóc bà, nghe bà cứ nói mãi:

– Đem con heo đó làm thịt đi, nhanh lên!

Bà cứ nói tới nói lui như vậy hoài. Sau đó mới mất. Nghe quyến thuộc kể lại, Sư Nhân Ba Thiết nói:

– Như vậy thì rõ ròi, ta có thể xác định, bà ấy hôm nay rơi vào cảnh giới này, hoàn toàn là do lòng cứ ôm giữ mãi tà niệm.

Thế là sư Nhân Ba Thiết bảo thân quyến bà X:

– Cách nhà các ngươi khá xa có một làng tên Ngư ôn, có một gia đình nuôi heo. Tại đó có con heo nái vừa mới sinh một lứa heo, khoảng mười mấy con. Các người tới sẽ thấy có một heo con rất đặc biệt khác hẳn. Hãy mau mua nó về, ta sẽ quy y cho nó.

*

Ông chưa dám nói thẳng ra đó chính là hậu thân của mẹ họ. Bọn họ đi tìm ba ngày thì đến Ngư ôn, và gặp heo con màu lông y như sư Nhân Ba Thiết tả. Kỳ lạ hơn nữa là heo con vừa nhìn thấy họ thì chạy tới tỏ vẻ mừng rở thân thiện. Thấy thái độ con heo, Thân quyến bà X không ai bảo ai đều tự hiểu và thầm đoán đây chắc là mẹ mình. Dù không nói ra nhưng họ rất buồn. Họ nhanh chóng mua con heo đem về chùa, thỉnh Nhân Ba Thiết quy y cho nó. Quy y xong, các con bà bàn bạc muốn đem nó về nuôi. Nhân Ba Thiết bảo:

– Không được, đã quy y rồi, cần phải đem nó đến thâm sơn phóng sinh.

Các quyến thuộc đều lo sau khi phóng sinh, nó sẽ bị các loài thú hung dữ khác ăn thịt. Nhân Ba Thiết nói:

– Không lẽ các ngươi muốn nó ở trong súc đạo hoài sao?

Người nhà bèn đem nó đi phóng sinh, phóng sinh rồi chẳng mấy chốc thì nó chết. Heo mất xong, thì sinh vào cõi người. Nhân Ba Thiết nói:

*

– Đây là một bài học cho các ngươi cảnh giác, mặc dù cả đời niệm Phật ăn chay, nhưng nếu cứ nói lời tà kiến, ôm mãi tâm bất chính không buông thi cực kỳ nguy hiểm cho giây phút cận tử và bản thân sẽ phải đền trả cho ác niệm của mình. Tà niệm có thể khiến đương sự bị quả báo dội ngược, khởi niệm muốn hại người hay vật như thế nào, thì bản thân sẽ bị hại trước tiên.

Vì sao mẹ các ngươi trước khi chết, cứ đòi đem heo đi giết? Bởi trong tâm bà cứ ôm mãi một điều, mong rằng lúc cháu trai trưởng kết hôn, bà sẽ làm y theo tập tục của dân Đài Loan là giết heo mổ dê, tổ chức tiệc cưới linh đình. Đây chính là tâm nguyện bà luôn ôm ấp, đeo mang và muốn thực hiện cho hôn lễ của cháu nội.

*

Do nguyện vọng này vẫn chưa thực hiện được, vì cháu nội chưa kết hôn mà bà đã chết, nên ý tà còn lưu trong lòng mãi. Vì vậy mà phút hấp hối ỷ tưởng nào trong đầu có mạnh nhất sẽ dẫn bà đi thọ sinh vào cảnh tương ưng với tâm. Khi gần chết lòng bà toàn sát niệm hừng thịnh, bà khồng hề tha thiết niệm Phật A Di Đà mong ngài tiếp dẫn, trong đầu toàn là tâm háo sát, khao khát muốn giết heo. Niệm này ôm ấp đến chín mùi, tà niệm này đã át hết công đức và thiện niệm cả đời của bà, dẫn đến kết quả bà phải đầu thai làm heo và phải trả báo cho ý niệm háo sát của mình.

Rồi sư Nhân Ba Thiết kết luận:

– Một đời niệm Phật ăn chay, do không buông tà kiến, mà bị đọa. Cận tử nghiệp vô cùng đáng sợ. Các ngươi phải cẩn thận, cảnh giác!

(Cận tử nghiệp – Theo Phật học tinh yếu và Tạng Thư Sống Chết)

Tuệ Tâm 2020.

 

Xem Thêm:   Lời dạy của đại sư Thiện Đạo

Sưu Tầm Bởi Tuệ Tâm Admin ( https://kinhnghiemhocphat.com/ )

5 lượt xem | 0 Bình luận
Nam Mô A Di Đà Phật - Pháp Giới là trang chia sẻ phật pháp, kinh phật, pháp âm, câu chuyện phật giáo. Mong góp chút sức lực bé nhỏ để giúp các bạn tiếp cận được đại trí thức của đức Phật. Đừng hỏi tôi là ai. Hãy chấp trì danh hiệu Phật, gieo duyên với Phật Pháp để giúp bạn an lạc.
Pháp Âm Thần Chú Tu Học Blog